Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

HUYỀN DIỆU CƠ BÚT - CAO ĐÀI - ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ Phần một

Đăng lúc: 02:02 AM 01/06/2018 0   832

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...
HUYỀN DIỆU CƠ BÚT

A- DIỆT HÌNH TÀ PHÁP CƯỜNG KHAI ĐẠI-ĐỒNG

1- Ba vị Tướng-soái của Đức Chí-Tôn:

Đây chính là ba vị Tướng-soái của Thầy đã chọn lựa sẵn cho xuống trước, ngày nay Thầy đến lập nền chơn giáo chỉ qui-tựu lại mà thôi, nên tất cả đều có đầy đủ để giao cho sứ-mạng xây cơ chuyển thế, khai Đạo cứu Đời.

Đức Hộ-Pháp có nói rằng: “Dùng lương sanh để cứu vớt quần-sanh”.

Những ngày đầu, Đấng AĂÂ gọi ba vị này là “Tam vị Đạo-hữu”, một từ thân-mật là các ông:

- Cao Quỳnh Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888)

- Cao Hoài Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH, tuổi Tân-Sửu (1901)

- Phạm Công Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi Canh-Dần (1890)

Thầy đã ân-cần nhắc-nhở:

“CƯ, TẮC, SANG, ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm-tối trong buổi ban sơ. Thầy lại khiến ba đứa phải liên-hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Đạo cho đến cùng”.

Đức Chí-Tôn giáng Cơ cũng nói rõ về phần yếu trọng của ba Ngài nữa:

“CƯ, TẮC, SANG, con ơi! Lập Đạo thành đặng chăng tại nơi ba con. Con đã nghe quyền-hành của yêu quỉ Thầy cho lớn đến bực nào? Chẳng phải là cơ thử Thánh, Tiên, Phật mà thôi, lại còn là Công-bình thiêng liêng của Tạo hóa. Nếu hai đầu cân chẳng song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Tự nơi các con làm thế nào cho bên Thánh-Đức nặng hơn tà-mưu thì làm mới ra công quả. Các con chớ ngại, ngày nay Đạo đã khai tức là Tà khởi. Vậy các con phải làm hết lòng, hết sức mà gìn-giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn giữ-gìn cả Môn đệ Thầy nữa.

“Nội nơi Nam-phương này, như có mặt cho Tà thần yêu-quái sợ thì duy có ba con. Vậy ráng giữ-gìn cho thanh-khiết. Thầy nói thật cho các con hiểu trước rằng: Cả Môn-Đệ Thầy đã lựa chọn, lọc-lừa, còn lại lối nửa phần. Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám-dỗ, đi bao nhiêu thì mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên cơ phải vậy, thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức-tin của Môn-đệ Thầy lên cao hằng ngày, ấy là công-quả đầu hết.” (ĐCT Giáp-Dần 1926)

Bởi vì, trên tinh-thần một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp, thì Tôn-giáo ấy phải có đủ Tam-bửu: TINH, KHÍ, THẦN.

- Về Thần: thì khi lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của Đạo-giáo.

- Về Khí: thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể của Diêu-Trì-Cung làm Khí (ấy là Lục-Nương, Thất-Nương, Bát-Nương).

- Về Tinh: thì hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Pháp, Đạo, Thế, tượng-trưng là: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh (là ba ông Cư, Tắc, Sang)

Ấy vậy:

“Chúng ta xét thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh-phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn-giáo Đức Chí-Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô-đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.”

Thử hỏi, các Tôn-giáo từ xưa thì sao?

- Đạo Phật: có 4 người theo Ngài, nhưng không phải bốn người ấy theo làm Môn-đệ, mà theo đặng coi Phật có đoạt Pháp đặng chăng?

Sau cùng chỉ có hai người trọng-yếu hơn hết, rồi đến ngày cuối-cùng còn có một người đoạt đặng Phật-giáo mà thôi.

- Đạo Tiên: Đức Lão-Tử có một người Môn-đệ và một đứa ở là Từ-Giáp biết Đạo của Ngài. Duy có ông Doãn-Hỉ theo Đức Lão-Tử, đoạt pháp, truyền-giáo mà Đạo Tiên còn tồn-tại đến ngày nay.

- Đạo Khổng-Phu-Tử tuy vẫn nói có Tam thập-lục Thánh, Thất-thập nhị Hiền, mà cả thảy Môn-Đệ của Đức Khổng-Tử chưa chắc người nào đoạt đặng. Duy có một người là Thầy Sâm mà thôi. Bằng cớ là buổi chung-qui Ngài kêu Sâm mà nói: Đạo Ta chỉ có một ngươi biết mà thôi “Sâm, ngô Đạo nhứt vi quán chi.”

- Đức Chúa Jésus có nửa người Môn-Đệ thôi, bởi ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi ăn năn, khóc-lóc với Bà Maria mà xưng tội mình.

- Mahomet: Có một người Môn-đệ là phụ nữ mà Đạo Hồi đã thành vậy.

Chúng ta suy đoán thấy chỉ có Thương yêu: duy có một người thương hoặc nửa người thương mà các vị Giáo chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt điạ-cầu này.”

2- Những vấn đề yếu trọng trong nền Đạo:

* Hộ-Pháp Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài

Ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934)

Đức Quyền Giáo-Tông qui Thiên có di chúc giao quyền Giáo-Tông Hữu hình tại thế cho Đức Hộ-Pháp. Lúc đó có rất nhiều sự kiện rối ren xảy ra trong nền Đạo, bên trong nội bộ của Đạo thì chia rẻ trầm-trọng, bên ngoài thì nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách áp đảo.

Hội Thánh gấp rút triệu tập Hội-Nhơn-Sanh và Hội Thánh để tìm phương củng-cố nền Đạo.

Ngày 17-10 Ất-Hợi (dl 12-11-1935) Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh thỉnh Đức Ngài kiêm nhiệm Chưởng quản Cửu-Trùng-Đài. Thiên-trách nầy đã được Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ chấp thuận, có cho bài thơ khoán thủ như sau:

THI

HỘ giá Chí-Tôn trước đến giờ,
PHÁP luân thường chuyển máy Thiên-cơ.
CHƯỞNG quyền Cực-lạc phân ngôi vị,
QUẢN suất càn-khôn định cõi bờ.
NHỊ kiếp Tây-Âu cầm máy tạo,
HỮU duyên Đông-Á nắm Thiên-thơ.
HÌNH hài Thánh-thể chừ nên tướng,
ĐÀI trọng hồng-ân gắng cậy nhờ.

Nhứt Trấn Oai Nghiêm

Ngày 6-11Giáp-Tuất (dl 12-12-1934), Hội Nhơn Sanh và Hội-Thánh yêu cầu Đức Hộ-Pháp nắm quyền Chưởng quản Cửu-Trùng-Đài cho đến ngày có đủ 3 vị Đầu Sư để sớm chỉnh đốn nền Đạo.

Kể từ ngày ấy, Đức Hộ-Pháp nắm quyền Thống nhứt, Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài tức là Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài. Nhờ quyền thống nhứt và rộng rãi nầy, Đức Hộ-Pháp lèo lái con thuyền Đạo từ từ qua khỏi cơn sóng gió và phát triển thêm lên vượt bực.

Việc Đức Hộ-Pháp nắm quyền Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài là do các Đấng nơi Ngọc-Hư-Cung ở cõi thiêng liêng quyết định. Hội-Thánh và Hội-Nhơn-Sanh nơi cõi trần là để hợp-thức-hóa quyết định chuyển pháp của Ngọc-Hư-Cung mà thôi.

* Lục-Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ nói về việc chuyển Pháp như sau:

LỤC NƯƠNG DTC (TNHT. II. 87)

Em chào mấy anh. Em đương ở Ngự Quan Cung, Bát-Nương đến cho hay rằng mấy Anh đương ngưỡng nghĩa, nên vội vã đến hầu.

Khi mơi nầy, Em đặng tin lành: Ngọc Hư Cung lo chuyển pháp. Cả Thiên Thơ hủy phá, sửa cải Pháp Chơn truyền. Chư Thần Thánh Tiên Phật vui mừng chẳng xiết, Diêu Trì Từ Mẫu đẹp dạ không cùng, nhưng vì cái mừng ấy mà làm cho Người đổ lụy, ngâm bài thi nầy:

THI

Vú Mẹ chưa lìa đám trẻ con, 
Độ sanh chưa rõ phận vuông tròn. 
Quyền cao Ngự Mã là vinh bấy! 
Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ còn?. 
Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo, 
Vẻ tươi bợn thế nét dò đon. 
Thà xưa ví bẵng nay gìn vậy, 
Lòng Mẹ ngại ngùng, con hỡi con!

Diêu Trì Từ Mẫu

Nhị Ca ôi ! Bài thi làm cho cả Cung Diêu Trì đều đổ lụy. Mấy anh nên lấy nó làm phép hằng tâm thì bước vinh diệu thiêng liêng không lạc nẻo”

Lưu ý:

- Ngự Mã: tức là Ngự Mã Thiên Quân, quyền hành của Đức Hộ-Pháp trong buổi Tam-kỳ Phổ độ này.

- Hiệp Thiên: Hiệp-Thiên-Đài, Hộ-Pháp Chưởng quản.

- Nhị Ca: Lục-Nương cũng gọi Đức Hộ-Pháp là Nhị Ca, gọi theo Thất-Nương Diêu-Trì-Cung.

Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, phần Thi Văn, có một bài thi khác, các Đấng cho biết Thiên thơ sửa đổi, bởi vì các Chức sắc lãnh đạo CỬU-TRÙNG-ĐÀI không có phương cách trị an trong cửa Đạo, nên phải chuyển qua cho HIỆP-THIÊN-ĐÀI cầm quyền điều khiển nền Đạo.

THI

Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ, 
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi. 
Cửu-Trùng không kế an thiên hạ, 
Phải để Hiệp-Thiên đứng trị vì. 
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ, 
Nên công giúp thế lánh cơn nguy. 
Quyền hành từ đấy về tay nắm, 
Phải sửa cho nên đáng thế thì.

TNHT. II. 124

Ngày 18-10 Ất-Hợi (dl 13-11-1935) Đức Lý Giáo-Tông có giáng cơ tại Hộ-Pháp-Đường nói chuyện với Đức Hộ-Pháp, xin dẫn chứng:

- Cười ! Lão chẳng nói rõ, Hiền Hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Đạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu danh vô thực như vậy có phải ?

May thay ! Thiên thơ do một mặt chẳng chi dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương cầm quyền trị thế.

Hộ-Pháp bạch:

- Thiên thơ đã đổi, Đệ-tử xin giao quyền hành của Quyền Giáo-Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên thơ vững chặt.

- Cười ! Lão e cho:

. Một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại;

. Hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay thì Hộ-Pháp có thế nào điều hành Hội-Thánh cho đặng. Ấy vậy, cứ để y.

Nghe thi nầy và kiếm hiểu: (TNHT. II. 97 )

THI

Bát nhã từ đây vững lái thuyền,
Tuông pha khổ hải độ nhơn duyên.
Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,
Rạch nước trừ oan đủ diệu huyền.
Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,
Nâng an lòng bản cậy Thần-Tiên.
Phong ba mấy độ đà qua khỏi,
Ném thử Gián Ma đóng Cửu tuyền.

Đức Lý Giáo-Tông

Một bài Thánh giáo khác của Đức Lý Giáo-Tông nói thêm về việc: Tại sao Đức Lý Giáo-Tông giao quyền Giáo-Tông Hữu hình cho Đức Phạm Hộ-Pháp nắm giữ:

Phò loan : Hộ-Pháp Tiếp-Đạo.

Tòa-Thánh, 1-12 Quí-Tỵ (dl 5-1-1954).

* LÝ GIÁO-TÔNG

- Hiền Hữu có nghĩ tại sao Lão phải dâng quyền Giáo-Tông cho Hiền Hữu đặng trọn quyền Chí-Tôn Hữu hình tại thế chăng?

Hộ-Pháp bạch:

- Xin Ngài dạy rõ.

- Thì cũng do lòng Từ-bi vô tận của Đại Từ Phụ. Người sợ oai của Lão khi cầm quyền thiêng liêng mối Đạo quá chấp nê phàm tánh, không dung thứ tội tình cho con cái của Người, nên giao cho Hiền Hữu là bạn đồng sanh, biết đau đớn, biết khổ cực với mảnh thi phàm, mà rộng dung cho họ. Cười!. . .

Quyền Chí-Tôn trong tay Hiền-Hữu thì cứ tự dụng đặng định vị cho Thánh-Thể của Người. Lão chẳng nên can thiệp vào đó.

Nầy Hiền Hữu, Lão nói thử, Hiền Hữu nghĩ coi có lẽ nào Lão cầm cơ thăng vị cho những người như : Kiên, Chấn, Thạch, Dược?

Cười! Hiền Hữu tự mình định liệu lấy, nếu cần, phò loan nơi Giáo-Tông-Đường, Lão sẽ đến bàn luận. Lão xin kiếu. THĂNG.

* Lập Phạm Môn và Cơ-Quan Phước-Thiện:

Khởi đầu, Đức Lý Giáo-Tông lập Minh-Thiện-Đàn tại nhà Ông Đinh-Công-Trứ ở làng Phú-Mỹ quận Châu Thành, tỉnh Mỹ-Tho ngày 15-7 Mậu-Thìn (dl 29-8-1928).

Sau đó:

Ngày 25-2 Kỷ-Tỵ (dl 4-4-1929), Đức Lý Giáo-Tông giao Minh-Thiện-Đàn cho Đức Hộ-Pháp để Ngài thành lập Phạm Môn, theo tinh thần của 4 Câu thi của Đức Chí-Tôn ban cho:

THI

Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn, 
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn. 
Vô lao bất phục hồi chơn mạng, 
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.

Đức Chí-Tôn

Các cơ sở Lương điền Công nghệ của Phạm Môn được chánh thức khai mở vào cuối năm Canh Ngọ (1930) tại Tâm Lạch, xã Trường Hòa (Tây-Ninh).

Đầu tháng Giêng năm Giáp-Tuất (1934), sau khi ăn Tết xong, Đức Hộ-Pháp ra lịnh triệu tập khẩn cấp tất cả các công quả Phạm-Môn khỏe mạnh về giữ Tòa-Thánh, chống lại lực lượng của Chi-phái kéo về dùng bạo lực đánh chiếm Tòa-Thánh.

Ngày 20-Giêng Giáp-Tuất (dl 5-3-1934) lực lượng Chi-phái kéo về Tòa-Thánh rất đông, bị các công quả Phạm-Môn chận ngay tại các cổng vào Nội Ô, kiên quyết không cho vào Nội-Ô chiếm Tòa-Thánh, khiến âm mưu của họ bị hoàn toàn thất bại.

Sau đó, nhà cầm quyền Pháp tìm cách bắt bớ các công quả Phạm Môn, và buộc Hội Thánh đóng cửa các cơ sở của Phạm Môn.

Năm Mậu Dần (1938), Đức Hộ-Pháp chuyển Phạm Môn thành Cơ Quan Phước Thiện, trực thuộc Chi Đạo Hiệp-Thiên-Đài, dưới quyền đặc biệt của Đức Hộ-Pháp, do Đạo-Nghị-Định số 48/PT ngày 19-10 Mậu-Dần (dl 10-12-1938) của Đức Lý Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp đồng ký tên, qui định 12 phẩm cấp Chức sắc Phước-Thiện gọi là Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng

* Đức Hộ-Pháp cho thơ tức ban quyền-hành:

Năm 1960, Đức Hộ-Pháp giáng cơ tại Giáo-Tông-Đường, có khen Ngài Bảo-Thế bằng bài thơ khoán-thủ : Bảo Thế Cứu Nước:

THI

BẢO trọng vạn linh hiệp Chí Linh, 
THẾ nguy chuyển loạn lập hòa bình. 
CỨU đời mở đạo kinh luân sẵn, 
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.

Đức Hộ-Pháp

Ngày 6-2 Ất-Tỵ (dl 8-3-1965) Đức Hộ-Pháp cũng có giáng cho Ngài Bảo-Thế bài thi khoán thủ:

Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài Thừa mạng:

THI

QUYỀN uy nhờ bởi giữ Chơn truyền, 
CHƯỞNG đức dụng hiền mộ Thánh Tiên. 
QUẢN quán chúng sanh tu cội phúc, 
HIỆP hào nhân sĩ hưởng tiền duyên. 
THIÊN môn mở rộng nguyên nhân đến, 
ĐÀI nội tuyển thăng Thánh đức lên. 
THỪA thế chuyển nguy an Thánh địa, 
MẠNG Trời đâu để quỉ hành quyền.

Đức Hộ-Pháp

* Thơ của Bà Lâm-Hương-Thanh:

Sau đây, xin ghi lại một bài giáng cơ của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh tại Hộ-Pháp Đường, đêm 1-1-1946. Phò loan: Khai Đạo và Sĩ Tải Lợi.

"Chào Trí Thanh, cùng mấy em:

THI

LÂM tuyền đã ẩn mấy thu sang, 
HƯƠNG đượm nhuần trăng đã lố màn. 
THANH Thủy châu về huờn kiếm báu, 
Đề danh đến buổi đất nhà an.

Lâm Hương Thanh

Khai Đạo bạch: ... ... ....

Bà đáp:

- Đây hết buổi phong ba, đến hồi an tịnh. Vậy mà không sao. Mình muốn cho yên, trước phải loạn, sau mới yên được. Muốn nước đang đục lóng trong thì phải quậy trộn cho dữ mới lóng bùn được.

Đạo có khảo mới cao. Chức sắc bị khảo mà chịu nỗi mới có giá trị. Học trò chịu khảo thí mới lãnh cấp bằng. Nếu từ chối thì rớt. Thế thường học nhiều đậu ít. Còn nơi đây là Trường Công Quả, vậy vị nào muốn xứng đáng Môn-đệ của Đức Chí-Tôn thì chẳng bao giờ ngần ngại các việc công quả, cho chung Thánh Thể Đức Chí-Tôn, cũng do nơi mấy em đào tạo về mặt ngoại-giao.

Vậy có câu:

Ái nhơn, nhơn hành ái chi, 
Bất ái nhơn, nhơn hành bất ái chi. 
Kỉnh nhơn, nhơn hành kỉnh chi, 
Bất kỉnh nhơn, nhơn hành bất kỉnh chi.

Có cảm mới có ứng. Nên hiểu lọc lừa đi cho khéo, đồ cho trúng thời đắc chí sở nguyện.

Tâm vững, cầm lèo lái chạy qua bỉ ngạn. Tuy sóng to gió lớn, lượn sóng xuôi sẽ chạy, miễn rằng ngó phía trước thuyền, tránh cho lẹ những đồ vật ngăn cản.

Sĩ Tải Lợi bạch: ... ... ....

Bà đáp:

- Sợ không quen sóng gió, buồn mửa. Nếu có mửa thì uống nước chanh. Mình ăn phủ bì chúng nó mà.

- Em Thái Khý Thanh, nhờ mới để bộ râu nên vuốt râu thả mồi câu chúng nó. Nó mảng nghĩ nhìn bộ râu, quên cả sự nghiệp, đành chịu phọt phe.

Ước mong sao mấy vị trong đám cầm cờ chỉ nẻo Cửu-Trùng đồng phun râu, chúng nó mới kinh-hãi.

Qua mừng và khen tặng Chú Khách nầy làm gương cho kẻ Việt.

THI

Nam Hải Prasey ấy vẫn gần, 
Hai đàng buổi trước lại đồng thân. 
Nhớ nhau khuyên nhủ đôi lời tặng, 
Cùng bạn khi xưa lúc ở trần.

THĂNG

 

* Bát-Nương:

THI

Đảnh vân để lối định phong cương,
Nước Việt ngày sau sẽ phú cường.
Đạo đức treo giềng noi vạn quốc,
Tinh thần để lối dẫn Đài Chương .
Diệt tà định được hồn Hồng Lạc,
Tôn chánh tạo nên cảnh thái bường.
Liệt quốc sau cơn nguy đại chiến,
Hướng về Việt quốc lãnh niềm thương.

Bát-Nương

* Đức Lý Giáo-Tông giáng ban cho Hộ-Pháp một bài thi:

THI

Đức tin một khối tượng nên hình,
Đã hiệp vạn linh với Chí Linh.
Nêu phướn từ bi tiêu loạn lạc,
Soi gương bác ái lập Hoà Bình.
Chiêu an tả đạo trừ tà khí,
Độ tận chúng sanh chiếu cứu tinh.
Mở mắt thiên lương dìu chủng tộc,
Nghĩa nhân âu đổi lấy nhơn tình.

Đức Lý Giáo-Tông

3- Đức Chi-Tôn đến với danh AĂÂ

Nhớ lại một đêm kia, thình lình có một Đấng giáng đàn với một Thần-điển phi thường và tự xưng là AĂÂ và dùng lời lẽ văn chương để dạy Đạo. Về sau, các Ngài mới hiểu ra là Đấng AĂÂ chính là Đức Cao-Đài Thương-Đế, là Đức Chí-Tôn Đại-Từ-Phụ. Đức Ngài nói rằng:

“Ta phải hạ mình là một Chơn linh thường, để cảm hóa các con”.

AĂÂ là một giả danh của Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, khi giáng điển xuống các buổi Xây bàn để tiếp xúc và cảm hóa các Môn-đồ đầu tiên của Ngài, trong khoảng thời-gian từ hạ tuần tháng 7 năm 1925 đến ngày Noel 25-12-1925 (Ất Sửu).

AĂÂ là ba nguyên âm đầu tiên của vần quốc ngữ Việt-Nam, tượng trưng Tam Thiên Vị, là khởi đầu của Càn-Khôn Vũ-Trụ. Đó là Thượng-Đế Ba Ngôi:

- A là ngôi Thái Cực, ngôi Phật, là Chí-Tôn.

- Ă là ngôi Âm, ngôi Pháp, là ngôi Phật-Mẫu.

-  là ngôi ba, ngôi Tăng, là toàn thể vạn linh.

Ba ngôi đó gọi là Tam ngôi Nhứt thể: Phật .Pháp. Tăng. Ba ngôi này ở tại trung tâm của Càn khôn, chiếm ba từng Trời: thứ nhứt, thứ nhì và thứ ba trong Tam thập lục Thiên (36 từng Trời).

* Quyền hành của ba ngôi: Phật. Pháp. Tăng:

- Phật cầm quyền-năng của Chơn-linh.

- Pháp cầm quyền năng của khí thể tức là cơ sản xuất hữu hình, cầm quyền sự sống của vạn loại vì khí thể là chất sanh vạn vật.

- Tăng cầm quyền năng nuôi sống thể hài

Do đó, mà quyền năng mỗi ngôi cũng phân biệt:

* Ngôi thứ nhứt lo về sự tấn triển của Chơn-linh, dạy dỗ các Chơn linh cho cao thượng để hiệp về cơ qui nhứt.

* Ngôi thứ nhì lo về sự giáo-hóa các Chơn Thần, lo về cơ sản xuất và nuôi nấng vạn linh.

* Ngôi thứ ba lo về cơ cai trị vật loại cùng là đùm bọc sự sống để đem trở lại cơ qui nhứt, làm thế nào cho điểm linh-quang không bị mờ ám trong cái xác hình.

- Ngôi thứ nhứt ấy là giáo-hóa.

- Ngôi thứ hai ấy là dưỡng-dục.

- Ngôi thứ ba ấy là cai-trị.

Mỗi một sanh vật ở càn-khôn vũ-trụ này đều chịu trong định-luật ấy, không một vật chi qua khỏi hết.

- Luật tăng tiến thuộc Phật.

- Luật sanh sống thuộc Pháp.

- Luật quản-trị thuộc Tăng.

Các nhà khảo cứu và Thần-linh-học (nhứt là Thông thiên học) cho biết rằng:

Các vị: Brahma Phật, Shiva Phật, Krishna Phật, là ba ngôi của Đức Thượng-Đế được gọi là Tam vị Nhứt Thể với bảng tóm lược như dưới đây:

* Veda gọi Ngài là:

- Brahma (Thần sáng tạo)

- Shiva (Thần hủy diệt)

- Krishna (Thần bảo tồn)

* Cơ Đốc giáo gọi Ngài là:

- Đức Chúa Cha (Dieu le Père)

- Đức Chúa Con (Dieu le Fils)

- Đức Chúa Thánh-Thần (Dieu le Saint Esprit)

* Phật-giáo gọi Ngài là :

- A-Di-Đà-Phật (Amitabha)

- Quan-Thế-Âm (Avaloki.Teshvara)

- Đại Thế Chí (Manjushiva)

* Nho-giáo gọi Ngàì là:

- Ngôi Thái cực

- Ngôi Lưỡng-Nghi,

- Ngôi Tứ-Tượng.

* Thông-Thiên-Học gọi Ngài là:

- Đệ nhứt Thượng-Đế (Premier Logos)

- Đệ nhị Thượng-Đế (Deuxième Logos)

- Đệ Tam Thượng-Đế (Troisième Logos)

Kết luận về Tam Thế Chí-Tôn:

- Đấng Chơn linh Tam Thế Chí-Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó: Nhứt Thế BRAHMA-Phật, tức nhiên là Tạo Hóa.

- Nhị Thế SHIVA-Phật tức nhiên là Tấn-Hóa.

- Tam Thế CHRISTNA-Phật tức nhiên Bảo-Tồn, Đấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh.

Nay, Đức Cao-Đài Thượng-Đế đến với dân-tộc Việt-Nam mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Ngài nói rõ ba ngôi vị ấy chính là Một, là hiện thân của Ngài

Ấy là Đại-Từ-Phụ, Đức ngài xác nhận rằng:

“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới thì Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và Ngôi của Thầy là Thái-cực.

“Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến ra Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới.

“Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: Vật-chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm gọị là chúng sanh”

Một vũ-trụ hay một chơn-linh dù cao-trọng, dù hèn thấp cũng có nơi mình ba định-luật ấy để dung-hòa lẫn nhau mới tạo ra cái sống của vũ-trụ càn-khôn

4- Đức AĂÂ thể hiện sự thâm tình và bao dung:

Đấng AĂÂ đến với nhóm Xây bàn lần đầu tiên vào hạ tuần tháng 7 năm 1925 (Ất Sửu). Ba Ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang thỉnh bàn ra tính Xây bàn để cầu Cô Đoàn Ngọc Quế giáng dạy làm thi. Ba Ông vừa đặt tay lên bàn thì có một vị giáng vào.

Cô Đoàn Ngọc Quế dạy ba ông muốn cầu chư Thiên thì ngày đó ba anh phải ăn chay cầu mới được

(Ba ông vâng lịnh Cô Đoàn, ngày cầu thỉnh Tiên ba ông ăn chay)

1- Ngày 25-8 Ất-Sửu (dl 18-10-1925) Có ông Thổ địa Tài thần giáng bàn cho thi, trong đó có hai câu này nhờ Đức AĂÂ giải nghĩa giùm:

Người trước nghĩ thương cơn tuyết nhuộm,
Lũ sau buồn chạnh nỗi sương pha.

Đức AĂÂ giải nghĩa (Ông giải nghĩa cao kỳ lắm):

Có câu: Mã bì tuyết thể 馬 皮 雪 體

Nghĩa là da ngựa tuyết thân, là trang tài tướng chinh chiến một mình, chính là da ngựa bọc thân, tuyết sương đắp thể. Tỏ rõ đời ly loạn, có câu: “Gối vác nằm sương” chỉ tấm thân chịu nhọc nhằn cực khổ. Câu thi trên mà sửa lại như vầy thì nhằm điển văn hơn:

Đức AĂÂ sửa hai câu văn của Thổ Địa tài thần:

Thân trẻ phải cơn sương gối ướt,
Thương già gặp buổi tuyết thân pha.

Tuyết thân pha nghĩa là hoà lộn, chịu lạnh lùng đến đỗi thân với tuyết cũng lạnh như nhau.

2/- Ngày 26-10 Ất-Sửu (dl 12-11-1925), hai nhà báo tên là Lê Thế Vĩnh và Phạm Minh Kiên đến nhà Ông Cư hầu đàn để xem sự Xây bàn huyền diệu thế nào. Ông Cư xin với Ông AĂÂ cho mỗi vị khách một bài thi. Đấng AĂÂ liền đáp.

Để Bần-đạo cho chung hai người một bài:

THI

Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
Nước nhà ví biết thân là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

Đấng AĂÂ

Ai nấy đều khen chỉ có bốn câu thi mà gồm đủ bộ vận của hai nhà báo.

3/- Ngày qua tháng lại tới ngày (dl 13-1-1925). Ngày này lập bàn hương án chưng những hoa thơm, xông trầm trọn ngày (nhà không tiếp khách nào hết. Nhà ở số 134 đường Bourdais, Sai-gòn, nay là đường Calmette). Ba ông vọng bàn cầu khẩn thắp hương thơm từ 10 giờ đêm tới giờ Tý, xông trầm hương, thành tâm cầu nguyện, lối năm phút thì có Lục-Nương Diêu-Trì-Cung giáng

Mừng ba Anh hiểu Đạo:

Lục-Nương

Mừng nay đường Đạo đã êm chơn, 
Vàng ngọc công khánh chẳng dám hơn.
Rượu cúc bàn-Đào chở hội ẩm,
Thuốc Tiên lò Tạo giữ sanh tồn.
Bồng-lai vắng mặt Tiên buồn nhớ, 
Dinh Đảo nghiêng tai Thánh khải đờn, 
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục phẩm chi sờn.

Lục-Nương

4/- Năm 1925, Ông Nguyễn Trung Hậu nghe đồn Ông Tắc, Ông Cư, Ông Sang xây bàn có Tiên giáng cho thi hay lắm. Buổi nọ, Ông Hậu đến nhà Ông Cư, ý muốn thử xem thiệt giả.

Ông Hậu vào hầu đàn. Đức AĂÂ giáng, gõ bàn cho Ông Hậu bài thi sau đây:

THI

THUẦN văn chất ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Đến hồi búa Việt giục cờ Mao.

AĂÂ

Không ai biết cái bút hiệu của Ông Hậu là Thuần Đức, mà Đức AĂÂ nói lên đúng tên làm cho Ông Hậu bái phục và bắt đầu có đức tin.

Ông Cư xin Đức AĂÂ giải nghĩa bốn chữ: Cờ Mao búa Việt. Đức AĂÂ giải:

“Cờ Mao búa Việt” là vật binh quyền của Hiên Viên Huỳnh-Đế ban cho các Trấn Chư Hầu đặng quyền chinh phạt. Ngũ Đế mà hai nhà Thương, Châu còn dùng.

Đáng phạt thì phát cờ Mao,
Đáng giết thì ban búa Việt.

Cờ Mao màu hồng, trên lá cờ có đề bốn chữ: Mao trừ loạn tặc. Búa Việt, trên lưỡi búa có khắc bốn chữ: Việt sát phản thần (Theo Đạo Sử I của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu)

5/- Một hôm, Ông Nguyễn Trung Hậu bạch cùng Đấng AĂÂ rằng: Tôi còn nhớ hai câu đối thuở nay chưa ai đối được, xin đem ra cho Ngài đối chơi.

- Đấng AĂÂ bèn đáp: Bần Đạo xin hầu đối, nhưng nếu đối ra không chửng, quí vị chớ cười và niệm tình Bần Đạo mà chỉnh lại cho.

- Câu đối ông Hậu ra:

Ngồi trên NGỰA đừng BÒ con NGHÉ.

Ông AĂÂ đối lại:

Cỡi lưng TRÂU chớ KHỈ thằng TÊ

- Câu đối ông Hậu ra: NGỰA chạy MANG lạc

Ông AĂÂ đối lại: CÒ bay LE bè

Ghi nhận: Mỗi câu trên đều ngụ hai ý và đối rất chỉnh:

- Nghĩa 1 đều là có ý dạy bảo, khuyên răn, dặn dò.

- Nghĩa 2 là chơi chữ: Câu “ngồi trên NGỰA đừng BÒ con NGHÉ” có đến ba con vật: ngựa, bò, nghé.

Câu đối lại: “cỡi lưng TRÂU chớ KHỈ thằng TÊ” cũng đủ ba con vật: Trâu, Khỉ, Tê (tê giác).

Câu đối thứ nhì cũng vậy: NGỰA chạy MANG lạc

Tức nhiên nói rằng: Con ngựa thì chạy, con mang (hay Mễn) thì lạc.

Câu đối lại: CÒ bay LE bè, thì rằng Con cò thì bay, con le le thì đi lè bè.

Từ đây Ông Hậu mới hết sức phục tài Đức AĂÂ và hết lòng tin tưởng có người vô hình và sau đó Ông Hậu nhập môn vào Đạo.

Không bao lâu sau, người đến hầu đàn tại nhà Ông Cư càng ngày càng đông, trong ấy có Ông Trương Hữu Đức làm việc tại Sở Hỏa Xa và thi sĩ Bồng Dinh, tục kêu là Ông giáo Sỏi, làm việc tại Dinh Hiệp Lý Sài Gòn.

6/- Hôm ấy, ông Bồng-Dinh bạch cùng Đấng AĂÂ:

Trong Truyện Kiều có câu:

“Sửa sang níp Tử xe Châu, 
“Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa”

Chẳng hay: Níp Tử xe Châu là gì? Xin Ngài chỉ giáo.

Đấng AĂÂ đáp:

Níp Tử là cái rương của Đức Khổng Tử.

Xe Châu là cái xe của Vua Châu Võ Vương ngồi đi phạt Trụ. Cái rương của Khổng Tử dùng đựng sách vở, tức là văn chương của người văn sĩ thác rồi thời biết bao nhiêu học thức văn chương cũng theo xác thịt mà chôn vào quan cữu, nên Nguyễn Du mới dùng hai chữ Níp Tử để gọi cái quan tài của bậc văn chương tài tử, đây là nàng Đạm Tiên.

Vua Châu Võ Vương ngồi long xa đi phạt Trụ, tức là gồm thâu giang sơn nhà Trụ vào đấy. Con người ở đời làm được bao nhiêu sự nghiệp, khi thác rồi cũng phủi tay không, thì chẳng khác nào bao nhiêu sự nghiệp tự mình gây dựng trong buổi sanh tiền, khi nhắm mắt rồi, thảy đều thâu vào trong linh xa vậy. Cho nên, Nguyễn Du dùng hai chữ Xe Châu để gọi cái linh xa của kẻ tài tình bạc mạng.

Kể từ đó, ba Ông thường cầu Đấng AĂÂ về để học hỏi về thi văn. Đức AĂÂ thường giáng cho thi:

THI

Người hứng trăng thanh kẻ bụi vùi, 
Âm Dương cách trở chẳng cùng vui.
Hạc mây đã khỏi lâm trần cấu,
Cõi tục thương người xúc dạ Tôi.

Đức AĂÂ

Ngày 16-12-1925 Đức AĂÂ giáng cho thi:

THI

Cứ níu theo phan Đức Thượng-Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bành an.
Nguyệt hoa căn cội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành Dương hưởng Đạo nhàn.

Đức AĂ (20-12-1925)

Mừng thay gặp-gỡ Đạo Cao-Đài!
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

***

Có cơ có thế có tinh thần,
Từ đấy Thần Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên.

Ngày 27-11-1925. Ông Quí-Cao có giáng cho thi tiếp:

Tử sanh đã định tự thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
Bắc nguỵ quan văn tâm mộ hữu,
Giang Đông khán thụ luỵ triêm y.

* Thất-Nương (Giải nghĩa hai câu chót) nghĩa là:

Khi Như Hoành ở Bắc Nguỵ đi thuyết chiến bên Giang Đông gặp Bạch-Hàm thì tâm đầu ý hiệp, kết làm anh em. Khi Như Hoành về Nguỵ thì anh em khó phân tay.

Như Hoành than rằng: “Bắc Nguỵ văn thiên thụ”

Bạch-Hàm than rằng: “Giang Đông nhất mộ vân”

Nghĩa là: Ngó Bắc Nguỵ nghe ngàn cây đưa tiếng bạn.

Nhìn Giang Đông thấy khóm mây vẽ hình anh.

Thất-Nương còn giải nghĩa câu:

“Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn”

Là phụng ngậm tờ chiếu về bờ Dương, Dương là đại thọ.

Đạo-đức chơn kinh có câu: “Dương vô trần nhiễm, đạo giả như Dương”.

Kinh Phật có câu: “Dương thuỷ năng huỷ tam đồ khổ chi tội”.

Dương bạn: là bờ Dương, là nền đạo-đức.

Thất-Nương giải tiếp:

“Trải bao thỏ lặn ác tà”.

Ngôn Đường Thi có câu: “Nhạ phi đông hải chí Tây sơn nhứt nhựt trường” nghĩa là Con chim ác bay về biển Đông tới núi Tây thì giáp một ngày. Mượn điển văn ấy mà chỉ một ngày: Mặt trời sớm mai mọc tại hướng đông, chiều lặn về hướng Tây. Khuất bóng ác tức khuất bóng mặt trời thì qua một ngày.

“Vừng ô” Không có điển văn. Tuy nhiên Thi văn có câu “Ô thước qui sơn” tức 1à quạ bay về núi.

Đã biết rằng hễ chiều thì biết bao nhiêu loài chim bay về núi, song lấy tích quạ mà chỉ rằng chiều tối thì phải hơn, vì quạ thì “Đen lông đen cánh bộ giò cũng đen”.

Chữ Hán thì chỉ các loài chim đều gọi là Điểu 鳥 (11 nét) Chim quạ cũng là loài Điểu, nhưng chỉ có con mắt có màu trắng, dễ nhận ra ban ngày, còn khi chiều xuống, đêm tối dần nên hình dáng cùng màu lông của Quạ lẫn trong màn đêm, còn lại màu đen tuyền mà thôi. Thánh nhân viết chữ Ô 烏 (10 nét)

* Thi Sĩ Bồng-Dinh là người rất ham thi văn của Đức AĂÂ, ông này thuộc rất nhiều thơ của Đức Ông, có xướng một đề thi:

THI

Dã tràng ai dễ xét công đâu?
Bãi biển thường xe cát lấp đầu.
Xúc cát trải bao cơn sóng lượn,
Nhăn mày cười bỡn khúc sông sâu.
Biết không nên việc nơi Trời nước,
Nào có nao lòng cuộc bể dâu,
Nhiều ít có danh trên võ trụ,
Kẻo mà thẹn với mấy bầy trâu.

Lão Bồng ( 15-12-1925)

* Lục-Nương . Hoạ:

Công Dã tràng công cán để đâu?
Muốn ngăn sóng cả khoả ngang đầu
Đất vò nên lọn xây thành lỡ
Nước dập tuông bờ lỡ giạu dâu.
Đấp biển vì lo bờ biển lỡ,
Moi sông bởi muốn ngọn sông sâu.
Nên hư trối mặc đời phi thị,
Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu.

* Thầy đến cho thi. Bài thi này Thầy cho ông Phạm Công Tắc, nhưng ông không mấy bằng lòng cho là “Dị hợm” vì Thầy cho thi ai nấy cũng tốt, duy có riêng Ngài thì bài thi khó hiểu quá:

THI

Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại, 
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.

Ông Cư thấy bài thi có ý nghĩa rất lạ, liền hỏi vị giáng cơ tên gì, thì vị ấy gõ bàn xưng là AĂÂ.

Ông Cư hỏi Ông AĂÂ bao nhiêu tuổi? Ông AĂÂ gõ bàn trả lời, đếm hoài tới mấy trăm, mấy ngàn cái mà bàn vẫn tiếp gõ. Ông Cư nói chắc Ông nầy ở trển lớn lắm, nên không dám hỏi nữa.

Kể từ đó, Đấng AĂÂ thường nhập bàn giảng dạy ba Ông nhiều điều rất thâm thúy. Những điều nào quá khó khăn mà không ai giải thích nỗi thì cầu Ông AĂÂ về, Ngài giải thích rất minh bạch khiến mọi người đều kính phục.

Bài thơ giản dị như trên mà kỳ thật Đức Chí-Tôn đã ban quyền cho Ông Phạm Công Tắc với một quyền uy tối thượng trong cửa Đạo Cao-Đài, là Hộ-Pháp Chưởng-quản Nhị Hữu hình đài, là Giáo-Chủ về mặt hữu hình, Đức Chí-Tôn là Giáo-Chủ vô vi.Về mặt huyền linh Đức Ngài nắm hai Bát-quái của Đại-Đạo

(Xin đọc thêm Dịch-Lý Cao-Đài rõ về Bát-quái)

Đức AĂÂ (họa Bồng Dinh)

Nhớ tình nhả ngọc với gieo vàng,
Bồng đảo trần gian cách trở đàng.
U hiển không từ nhơn nghĩa cũ,
Gặp nhau xin phó bóng thiều quang.

(6-12-1925)

Nước trí non nhân hứng Đạo thoàn,
Một bầu nhựt nguyệt nỗi mênh mang.
Đờn tòng réo rắt gieo hơi oán,
Nhạc suối ro re trỗi khúc xang.
Chim nước chào người bay rộn rực,
Cây che tiếp khách bước an nhàn.
Dừng chơn ngó lại miền nhơn sự,
Thương kẻ lo đời chẳng rảnh rang.

(7-12-1925)

Vịnh Mai

Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết não,
Thi không mai tuyết thế không xuân.

(14-12-1925)

Cũng đồng địa vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết giành trong sạch mai giành hương.

(14-12-1925)

Nhơn vô tùng thế tắc tùng thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
Mạc hối tiền trình căn dĩ định,
Tự nhiên dĩ hậu phản như tiền.

(14-12-1925)

Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao-Đài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...