B- Tìm Đại Ngọc Cơ Cầu Diêu-Trì-Cung:
“Qua thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), quí Ngài tiếp đặng mấy lời tiết lộ của Thất-Nương về Diêu-Trì-Cung: Trên hết có Cửu Thiên Nương Nương chưởng quản, dưới có chín vị Tiên cô mà Thất-Nương đứng thứ bảy, cô Hớn Liên Bạch là Bát-Nương.
Ngài Cao Quỳnh Cư được Thất-Nương dạy cho cách cầu Đấng Cửu Thiên Nương Nương phải trai giới:.
Quí Ngài không hiểu Ngọc-cơ là chi, nhờ Cô chỉ dạy. Thất-Nương tả hình của Ngọc cơ, rồi dẫn giải rõ căn cội, lấy hình chùm sao Bắc đẩu tạo thành, lại dạy cách phò Ngọc cơ, rồi biểu quí Ngài mỗi người làm sẵn một bài thi mừng Đấng Cửu Thiên Nương Nương và sẽ cầu Nương Nương vào đêm Trung Thu.
Dịp may lúc bấy giờ có Ông Phán Phan văn Tý, làm việc ở Sở Trường Tiền vốn là bạn học cũ của Ngài Cư và ở gần nhà Ngài Cư tại đường Bourdais Sài Gòn. Ông Phán Tý qua lại chơi nhà Ngài Cư, thấy quí Ngài Cư, Tắc, Sang Xây bàn cầu Tiên, được một bài văn thì lâu quá, nhưng ông chưa dám nói, mãi đến khi Ngài Cư qua nhà nói muốn cầu bằng Ngọc cơ nhưng chưa có, ông Phán Tý liền cho biết ông đang có một cây Ngọc cơ, để ông lấy cho mượn. Ông Phán Tý liền đi đến ông Âu Kích ở chùa Minh Lý đường Douamont đòi lại Ngọc cơ mà ông đã cho ông Âu Kích mượn từ lâu để thỉnh kinh.
Ông Âu Kích nói:
- Hiện giờ tôi chấp bút được rồi, ít khi dùng đến Ngọc cơ, xin gởi Ngọc cơ trả lại ông.
Ông Phán Tý liền đem Ngọc Cơ về cho Ngài Cư mượn.
Nguyên cây Ngọc cơ nầy, ông Phán Tý thỉnh ở chùa Hội Khánh ở Thủ Dầu Một. Ông Trần Hiển Vinh tu ở chùa Hội Khánh thuộc Chi Minh-Thiện trong Ngũ Chi Minh-Đạo, có tạo ra 12 cây Ngọc cơ. Ông thân sinh của Trần Hiển Vinh là một pháp sư rất sành việc cầu cơ thỉnh Tiên. Ông Phán Tý vốn tánh hiếu kỳ, mới xin thỉnh một cây Ngọc cơ về nhà, để ngày nay có cho Ngài Cư mượn dùng.
Đúng đêm 14 tháng 8 âm-lịch năm Ất Sửu (1925), tại nhà Ngài Cư, Ngài dọn dẹp và trang hoàng nhà cửa tinh khiết, đặt một cái bàn dài giữa nhà, rải hoa xung quanh, đặt 9 cái ghế mây quanh bàn, ở đầu bàn đặt một cái ghế to hơn, trước mỗi cái ghế đặt một tách trà, một ly rượu, một cái chén và đũa, trên bàn chưng trái cây và bình hoa tươi tốt, có đốt trầm để xông hương khử trược trong nhà.
Đúng giờ Tý, Ngài Cư đốt nhang đèn lên, cả thảy ba Ngài Cư, Tắc, Sang đều quì lạy khấn vái, rồi đem Ngọc cơ ra cầu. Đây là lần đầu tiên cầu bằng Ngọc cơ. Quả có Đấng Cửu Thiên Nương Nương giáng cơ và sau đó lần lượt 9 vị Tiên Nương đều có giáng chào mừng quí Ngài.
Khi ấy Thất-Nương yêu cầu ba Ngài đờn và ngâm bài thi của mình đặng hiến lễ Nương Nương, còn Lịnh Bà và Cửu Tiên an vị ngồi nghe.
Chừng nhập tiệc, Thất-Nương mời ba Ngài ngồi chung vào bàn cho vui. Ba Ngài sợ thất lễ, không dám ngồi nhưng Thất-Nương ép buộc nên vâng theo, đặt thêm ba cái ghế phía sau 9 cái ghế của Chín Cô, xá một xá rồi ngồi xuống.
Bà Hương Hiếu, hiền nội của Ngài Cư, gắp đồ ăn chay đặt vào chén, rót rượu và nước trà đãi Lịnh Bà và Chín Cô, đãi người vô hình mà làm y như là đãi người sống vậy.
Nửa giờ sau, chừng như xong tiệc, hai Ngài Cư và Tắc phò Ngọc cơ trở lại. Lịnh Nương-Nương và Chín Cô giáng cơ viết lời cảm tạ, mỗi vị cho một bài thi để kỷ-niệm và hứa rằng, từ đây có Ngọc cơ rồi thì rất tiện cho Diêu-Trì-Cung đến dạy việc.
Đó là buổi phò Ngọc cơ đầu tiên và làm lễ gọi là Lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, 134 Bourdais Sài-gòn.
Từ đó về sau, quí Ngài dùng Ngọc cơ để cầu Đức Chí-Tôn và các Đấng thiêng liêng giảng dạy Đạo lý và chính nơi đây là nguồn gốc của Cơ Bút của Đạo Cao-Đài.
Như vậy, Cơ Bút của Đạo Cao-Đài bắt nguồn từ cây Ngọc cơ của chi Minh Thiện, mà cây Ngọc cơ nầy chế tạo theo cách thức của Đạo Minh Sư từ bên Tàu truyền sang nước ta.
Đạo Minh Sư bên Tàu đã biết cách phò cơ thỉnh Tiên, nhưng việc cầu cơ thuở đó còn rất khó khăn. Việc cầu cơ phải được thực hiện trên núi hoặc trong các ngôi chùa rất thanh tịnh và vắng vẻ. Ngọc cơ được treo lên thế nào để đầu cơ chạm nhẹ trên mặt cát khỏa bằng chứa trong thau. Khi có Tiên giáng thì cơ chuyển động và đầu cơ viết lên mặt cát một hoặc là hai ba chữ Hán. Phải cầu nhiều đêm như vậy mới được trọn một bài kinh hay một bài văn.
Như vậy, việc Phò cơ trong Đạo Cao-Đài có nguồn gốc sâu xa từ cách cầu cơ thỉnh Tiên của Đạo Minh Sư bên Tàu truyền sang nước ta. Nhưng đến khi Đạo Cao-Đài sử dụng Cơ bút thì có chút ít biến cải tiến bộ hơn, là thay vì đầu cơ viết chữ trên mâm cát thì đầu cơ viết ra chữ bóng trên mặt bàn và viết chữ quốc ngữ nên dễ nhìn và dễ đọc hơn. Việc viết chữ bóng không để lại dấu vết trên mặt bàn nên cơ viết rất nhanh, tạo thành một bài văn cũng nhanh lẹ.
Còn việc Xây bàn lúc đầu có nguồn gốc từ Thần Linh Học của nước Pháp truyền sang nước ta. Thần Linh Học Pháp gọi Xây Bàn là: La Table tournante hay La Table frappante”.
(Trích Cao-Đài Tự Điển- Nguyễn Văn Hồng)
Nhờ chơi Xây bàn mà ba ông CƯ, TẮC, SANG, học hỏi đạo-lý, trau-giồi trí-thức cho tới ngày Đức AĂÂ xưng chính danh là Đức Chí-Tôn dạy ba ông Vọng Thiên bàn ngoài sân, quì giữa trời mà cầu Đạo (nhằm ngày mùng 1 tháng 11 Ất Sửu, dương-lịch 16-12-1925). Đó là ba vị Đệ-tử mà Đức Chí-Tôn thâu nhập-môn trước nhứt trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa-Thánh Tây-Ninh.
Sau đó, Đức Chí-Tôn thâu-phục chư vị Thời-quân Hiệp-Thiên-Đài, vị Đầu-sư Thượng Trung Nhựt và các vị Đại-Thiên-phong Cửu-Trùng-Đài...
Do lịnh Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, ba vị Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp, hiệp với chư vị: Bảo-Văn Pháp-Quân, Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai-Pháp, Tiếp-Pháp, chia nhau đi khắp các tỉnh Nam-phần để phò loan thâu người cầu Đạo nhập-môn” (ĐHP22-12 Đinh-Mùi 1958)
Duyên thơ giữa các vị ngày một khắn-khít hơn, nhờ đó mà Diêu-Trì-Cung đến với ba Ông để xướng hoạ thi văn làm nhịp cầu nối liền Tiên tục. Trong số ấy phải kể đến ba vị Tiên-nương có trách-nhiệm trực tiếp là: Thất-Nương, Lục-Nương, Bát-Nương.
Riêng phần ở trần-giới thì đây là cơ hội tốt để các bậc lương-sanh lần-lượt đến để cứu vớt quần-sanh. Thế nên về sau trong Hội-Thánh có đầy-đủ Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài cũng khởi từ đây.
Một điều mầu nhiệm đã đi vào cơ vận chuyển của Trời đất là Đức Chí-Tôn thâu nhận ba vị Đệ tử đầu tiên có tuổi là Tý, Sửu, Dần, ứng hợp với luật tuần hườn của vũ trụ là:Thiên khai ư Tý. Địa tịch ư Sửu. Nhơn sanh ư Dần. đó chứng tỏ là Tam Dương khai thái, biểu tượng bằng quẻ Càn ☰ Còn ba vì Tiên Nương: Thất-Nương, Bát-Nương, Lục-Nương biểu tượng bằng ba ngôi Âm, tượng bằng quẻ Khôn ☷ Càn Khôn là cánh cửa để đi vào Đạo Dịch hầu mới nhìn thấy được toàn bộ tướng diện của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, mà Tòa-Thánh Tây-Ninh đã chứa đầy Bí-pháp.
Thế nên Đức Chí-Tôn mới nói: “Chi chi cũng tại Tây-Ninh đây mà thôi”. Và “Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh Địa”.
Do đó Tòa-Thánh Tây-Ninh là Thánh Địa của Việt-Nam, mà Việt-Nam là Thánh-Địa đối với toàn Thế giới.
Từ trước tới giờ trên Thế giới này chỉ có ba Tòa-Thánh mà thôi:
1/- Tòa-Thánh Tibet ở Tây Tạng.
2/- Tòa-Thánh La-Mã ở phương Tây.
3/- Tòa-Thánh Tây-Ninh ở miền Nam Việt-Nam.
2- Diêu-Trì-Cung đến cho thi văn:
Lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung lần đầu tiên được tổ chức tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư ở địa chỉ 134 đường Bourdais Sài-gòn ngày 15-8 Ất-Sửu (dl 2-10-1925).
Sau khi Đức Phật-Mẫu giáng cơ để lời cảm tạ 3 vị là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang thì Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên-Nương viết ra 10 bài thi, mỗi vị viết một bài kỷ-niệm buổi Hội-Yến Diêu-Trì-Cung lần đầu tiên ấy.
Mười bài thi nầy về sau được dùng làm 10 bài Thài hiến lễ Đức Phật-Mẫu và Cửu vị Tiên-Nương mỗi khi tổ chức Lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung vào ngày rằm tháng tám.
Bài Thài hiến lễ Đức Phật-Mẫu:
CỬU kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,
THIÊN Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.
HUYỀN hư tác thế Thần Tiên Nữ,
NỮ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.
Diêu Trì Kim Mẫu
1/- Bài Thài hiến lễ Nhứt Nương
HOÀNG-THIỀU-HOA
(Bửu-pháp Đàn Tỳ-bà)
HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết đông về.
Non sông trải cánh Tiên Hòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.
Nhứt Nương có bửu pháp là Đờn Tỳ bà, có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển nơi từng Trời thứ 1 trong Cửu Trùng Thiên, xem xét các Nguyên nhân đang còn sống nơi cõi trần hay đã qui vị, vì mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển tượng trưng một Nguyên nhân
2/. Bài Thài hiến lễ Nhị Nương
(Bửu pháp là cái Lư hương)
CẨM tú văn chương hà khách đạo?
Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh Tiên còn mến cõi trần anh thư.
Nhị Nương có bửu pháp là cái Lư hương, có nhiệm vụ cai quản Vườn Đào Tiên của Đức Phật-Mẫu, đón tiếp các chơn hồn của những người qui liễu lên từng Trời thứ 2 của Cửu Trùng Thiên trong kỳ làm Tuần Nhị Cửu, mở tiệc Trường Sanh thết đãi, rồi đưa các chơn hồn đến Ngân Kiều, để cỡi Kim quang bay lên chầu Ngọc Hư Cung.
3/. Bài Thài hiến lễ Tam Nương
(Bửu pháp là Quạt: Long Tu phiến),
TUYẾN đức năng thành Đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắt lẻo con thuyền,
Chở che khách tục Cửu tuyền ngăn sông.
Tam Nương có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhã trên biển khổ nơi cõi thiêng liêng để rước những người đắc đạo từ bến mê qua bờ giác, đi vào cõi Thiêng liêng Hằng sống và che chở Chơn linh của các khách trần không cho xuống cõi Địa ngục.
Tam Nương có bửu pháp là Quạt Long Tu, có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Thanh Thiên, là từng Trời thứ 3 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần Tam Cửu, để đưa chơn hồn đến diện kiến 7 vị Tiên (Chính là Trúc Lâm Thất Hiền vào thời nhà Tấn tu thành Tiên), vào Cung Như Ý bái kiến Đức Thái Thượng Lão Quân, học sách Trường Xuân do Hội Thánh Minh giao cho.
Ngoài ra, Tam Nương còn có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhã để độ sanh, như đã nói ở trên.
4/. Bài Thài hiến lễ Tứ Nương
(Bửu pháp là Kim Bảng)
GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa.
Đợi trông nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.
Tứ Nương: Tiền kiếp của Tứ Nương tên Lê-thị-Gấm. Mới lên 9 tuổi, Gấm đã chết. Nàng lại sinh vào nhà họ Lê, trong gia đình ông Lê-Doãn-Nghi. Ông Nghi có hai người vợ. Bà kế thất cùng ông sinh ra hai người con: một trai là Lê-Doãn Luân, một gái là Lê-Thị-Điểm. Trong một giấc mộng Ông Lê Doãn-Nghi nằm mộng thấy có vị Thần đến ban cho họ Đoàn. Từ đó về sau ông đổi ra họ Đoàn. Vì thế Bà Lê Thị Điểm bấy giờ là Đoàn thị Điểm. Cả hai anh em Bà đều có tài văn chương xuất chúng. Bà là một thi văn nổi tiếng của Việt-Nam. Dịch phẩm Chinh Phụ Ngâm của Bà được dịch ra nhiều thứ tiếng. Về thơ Nôm: Bà có giáng ban cho thi phẩm “Nữ Trung Tùng Phận” 1401 câu, là một tuyệt tác trong nền Đại-Đạo.
Bà khuyến khích nữ phái trau giồi trí thức, không thể là kẻ giàu có mà dốt nát, phải là người có trí thức, kén chọn kẻ có văn tài lỗi lạc mới tương xứng.
Tứ Nương có bửu pháp là Kim Bảng (Bảng vàng để ghi tên những người thi đậu Trạng Nguyên, Tiến Sĩ), nên Tứ Nương có nhiệm vụ tuyển chọn người đủ tài đủ đức cho thi đậu để ra giúp nước.
Tứ Nương tiếp dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Huỳnh Thiên, là từng thứ 4 trong Cửu Trùng Thiên. Nơi đây, Chơn hồn được vào Cung Tuyệt Khổ bái kiến Đức Huyền Thiên Quân, được roi thần của Lôi Công trừ hết các trược khí còn bám vào Chơn thần, đi vào Lầu Bát Quái, lãnh Kim Câu đi lên chờ ở cửa Thiên môn (Cửa Trời).
5/. Bài Thài hiến lễ Ngũ Nương
(Bửu pháp là xe Như Ý)
LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.
Ngũ Nương Diêu-Trì-Cung có bửu pháp là xe Như Ý, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng Trời Xích Thiên, là từng Trời thứ 5 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần Ngũ Cửu, đưa chơn hồn đến Minh Cảnh Đài để xem rõ ràng trở lại tất cả những việc làm thiện ác vừa qua của chơn hồn nơi cõi trần, rồi hướng dẫn chơn hồn đến trước quyển Kinh Vô Tự để cho chơn hồn thấy được quả duyên của mình. Xong, đưa chơn hồn lên xe Như Ý, có các vị Oai Thần tiễn chân đi lên.
6/. Bài Thài hiến lễ Lục-Nương
(Bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu)
HUỆ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu Diêu phất phướn cõi tòng đưa Tiên.
Lục-Nương có bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu (Phướn Truy Hồn) tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời Kim Thiên, là từng thứ 6 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn vào Cung Vạn Pháp xem cho biết rõ cựu nghiệp của mình, vào Cung Lập Khuyết xem ngôi vị cũ, đến Lãnh Kim Sa bái kiến Phật, được chim Khổng Tước chở lên Đài Huệ Hương, để mùi thơm của Đài nầy khử hết trược khí, đặng chơn thần thơm tho đi lên cõi Niết Bàn.
7/. Bài Thài hiến lễ Thất-Nương

(Bửu pháp là Hoa sen)
LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.
Thất-Nương có bửu pháp là Hoa sen, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời Hạo-Nhiên-Thiên là từng thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn đến Cung Chưởng Pháp bái kiến Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, được Phật Dà Lam dẫn đường đi đến cõi Tây Qui, rồi đứng trên bông sen thần (Liên Thần) để bông sen đưa lên cõi Niết Bàn.
Thất-Nương còn lãnh nhiệm vụ đến cõi Âm Quang để giáo hóa các Nữ hồn tội lỗi, khiến họ thức tỉnh mà cầu nguyện Đức Chí-Tôn ân xá tội tình, được đầu kiếp lập công chuộc tội.
8/. Bài Thài hiến lễ Bát-Nương
(Bửu pháp là Giỏ Hoa lam)
HỒ Hớn Hoa Sen Trắng nở ngày,
Càng gần hơi đẹp lại càng say.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật Đài thêm hoa.
Bát-Nương có bửu pháp là Giỏ Hoa lam, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng Trời Phi Tưởng Thiên, là từng Trời thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, vào Cung Tận Thức bái kiến Đức Từ Hàng Bồ Tát, chơn hồn được con Kim Mao Hẩu đưa đến tận Tịch San, rồi đi lên cõi Niết Bàn. Chơn hồn còn được các Đấng dùng nước Cam Lồ rửa sạch nỗi ai bi của kiếp người.
Bát-Nương rất thường giáng cơ dạy Đạo, cho rất nhiều thi văn hay tuyệt. Bà có nhiệm vụ yếu trọng trong Cơ Đạo.ngày nay.
9/-Bài Thài hiến lễ Cửu Nương

(Bửu pháp là Ống Tiêu)
KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời
Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.
Bạc Liêu: Tỉnh Bạc Liêu, quê hương của Cô Cao thị Khiết. Cô mất năm 25 tuổi, mộ của Cô được làm bằng đá xanh rất chắc chắn và hùng vĩ, trong phần đất tư của dòng họ Cao Triều dành làm nghĩa trang cho dòng họ. Vị trí ngôi mộ nầy nằm cách Thị xã Bạc Liêu chừng 2 Km đi về hướng Vĩnh Châu. Dân quanh vùng gọi là mộ Cô Tiên.
Cửu Nương có bửu pháp là Ống Tiêu, có nhiệm vụ độ dẫn các chơn hồn đến từng Trời Tạo Hóa Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên, vào Diêu-Trì-Cung bái kiến Đức Phật-Mẫu, được ban thưởng cho trái Đào Tiên và uống Tiên tửu, được học tập nghi lễ của Thiên Triều để chuẩn bị đi lên Ngọc Hư Cung khi có sắc lệnh kêu, để các Đấng trong Ngọc Hư Cung định phận: Thăng hay đọa.
Kinh Tán tụng Công Đức Diêu-Trì-Kim-Mẫu có lời khen nhất là ba vị Tiên Nương này:
Đắc truyền khai mối Tam-Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu-Trì Cửu Nương,
Chín Cô đã sẵn lòng thương,
Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
LỤC- NƯƠNG phất phướn truy hồn,
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
BÁT-NƯƠNG thật Đấng Chí-linh,
Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
THẤT-NƯƠNG khêu đuốc Đạo đầu,
Nhờ Người gợi ánh nhiệm mầu huyền-vi.
Bài Kinh: Phật-Mẫu Chơn-Kinh, do Bát-Nương giáng cơ ban cho tại Báo-Ân-Đường Kiêm-Biên ở thủ đô Nam-Vang, nước Cao Miên, do Đức Phạm Hộ-Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo phò loan tại đó.
Trong thời Phổ-độ này, quyền hành của Diêu-Trì-Cung vô cùng yếu trọng. Mỗi vị có có công việc phổ độ riêng, hầu như chia nhau cùng khắp.
Sau đây xin ghi lại một Bài thi của Bát-Nương giáng dạy Nữ phái :
THI
Trau giồi cho xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
Thanh sử từng nêu gương Nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn Nam nhi.
Lọc lừa chớ để đen pha trắng,
Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt,
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.
Bát-Nương
Ba bài thài của Ba vị Tướng soái của Chí-Tôn:
Như trước đây chúng ta đã biết trong Bàn “Hội-Yến Diêu-Trì-Cung” có cả ba vị: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm và Thượng-Sanh cùng ngồi dự. Ngày sau dầu các Ngài đã qui Tiên hết. Đến ngày Đại Lễ Hội-Yến có thài 10 bài để hiến Lễ Diêu-Trì-Cung thì cũng tiếp theo là thài ba bài thài của Ba vị Tướng soái của Chí-Tôn nữa. Ba bài này cũng do từ khi các Ngài vừa qui Tiên liền giáng Cơ cho các Bài thài này để cúng tế mỗi lần cúng vía Đức Ngài.
Bài thài Hiến lễ Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư:
THI
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn trường,
Cõi Thiên mừng đặng dứt dây oan.
Nợ trần đã phủi, lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng.
Cổi tấm chơn thành, lòa nhựt nguyệt,
Phơi gan chí sĩ, nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
Để mắt xanh coi nước khải hoàn.
Bài thài hiến lễ Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc:
THI
Trót đã ba năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm Chơn Pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.
Bài thài Hiến lễ Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang:
THI
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.
Độ đời quyết lánh vòng danh lợi,
Trau chí tìm roi bậc Thánh Hiền.
Từ ái làm nền an thổ võ,
Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên.
Những mong huệ trạch Trên nhuần gội,
Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.
BÀ THIÊN HẬU (Cho ông Cao Quỳnh Cư)
THI
Hỏi số từ thân sẽ thế nào?
Tám mươi gần mãn số Thiên Tào.
Cháu con sum hội yên thân lão,
Sung túc dài dòng dõi họ Cao.
(22-12-1925)
HOA NHẤT NƯƠNG
Em cám ơn hai anh, em xin hai anh hãy gắng công học Đạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc Đạo.
Coi bửu vị làm trọng, đừng ham luyến hồng trần mà phải đọa. Đôi lời thành thật, xin hai anh thương tình gìn giữ, mắc hầu, em không thể nán lại lâu, em xin kiếu, lâu lâu em sẽ nói rõ. (14-1-1926).
THƠ CỦA LỤC NƯƠNG
Chanh ranh vạn thế ở trong vòng,
Giành giựt lẫn nhau miếng đỉnh chung.
Khanh Tể sao bằng tên Đạo Sĩ,
Hết đời ai giữ chức làm Ông.
Từ khi hiệp mặt buổi Trung Thu,
Cảm tình nhìn biết đứa em ngu.
Một chung háo nghĩa bằng vàng nén,
Phòng sau hội ngộ chỉ đường tu.
(23-12-1925)
Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E chư huynh trưởng trách em thầm.
Tuy xa cách mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hòa đọc lại ngâm.
(23-12-1925)
Vui nhơn vui Đạo lại vui thiền,
Vui một bước đường một bước yên.
Vui bóng Cao-Đài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế tải ngăn nhơn sự,
Vui một màu Thiên đóng Cửu tuyền.
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.
(Noel 1925)
THƠ CỦA THẤT NƯƠNG
Đã cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách mặt mà lòng chẳng lãng xao.
Đàng Đạo càng đi càng vững bước,
Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.
(22-12-1925)
Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Đạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
Một bước một đi đường một tới,
Lòng thành xin trọng thấu Cao-Đài.
(22-12-1925)
Người vô tình kẻ bạc tình,
Ba anh chẳng nghĩ nghĩa đồng thinh.
Đặng chim trách kẻ toan quên ná,
Buồn bực cho đây vẫn một mình.
(13-1-1926)
Thử lòng tri kỷ đó mà thôi,
Tương ngộ có hơn bảy tháng trời.
Yêu mến một lòng đây rõ biết,
Thỉ chung đâu để hổ cùng lời.
Ba ông: Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang hỏi Thất-Nương: - Anh trách sao em không nói thật AĂÂ là ông Trời, em thấy ba anh cũng như mù em cứ gạt hoài!
Thất-Nương: - Trời là Trời, em là em. Em rõ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng vậy em mừng.
THƠ CỦA BÁT-NƯƠNG
Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng thương.
(23-12-1925)
BÁT-NƯƠNG
Em mừng hai anh và Đại Tỷ (Nguyễn Thị Hiếu). Em buồn cho Thanh Thủy không đến.
Nỗi phận vô duyên phận chẳng đành,
Trách ai mộ thói yến cùng anh.
Nương mây đợi mỏi lòng tình ái,
Mượn ngọc trông ngơ tấm liệt trinh.
Vuốt dạ riêng đau người một cảnh,
Dằn thương cố nhớ buổi chung tình.
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn gìn.
(14-1-1926)
C- Ý-NGHĨA LỄ HỘI-YẾN DIÊU-TRÌ-CUNG:
Trích bài Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp
Tại Đền-Thánh, ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Sửu
Do kỷ-niệm Vọng Thiên Cầu Đạo Ngày 27-10 Ất Sửu
Thể Theo Thánh Lệnh Của Đức Phật-Mẫu
LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ KIM MẪU
“Hôm nay là ngày kỷ-niệm Bí-pháp: Bí-pháp Hội-Yến Diêu-Trì, Đức Chí-Tôn đã lập trong nền Chơn Giáo của Ngài. Bần-Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức Chí-Tôn hiểu rõ cái huyền-vi bí-mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đạt Đạo chúng ta tại mặt thế gian nầy. Hơn nữa Bần-Đạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường của một Đấng yêu ái, một Đấng tạo Càn Khôn Võ-Trụ, Đấng tự hữu hằng hữu, Đấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái thâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đạt đặng đức tin phi thường ấy, năm Ất-Sửu tức nhiên năm 1925 Đức Chí-Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình BẠN mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần-Đạo không dám nói, Ngài đến cũng làm bạn Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp. Tháng 6 năm ấy Ngài dùng CƠ BÚT HUYỀN DIỆU của Ngài, Ngài dạy Vọng Thiên Cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể tưởng tượng đây là một cử chỉ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải để một dấu hỏi, hỏi tại sao buổi ấy Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp có một đức tin vững vàng nghe theo lời Ngài Vọng Thiên Bàn Cầu Đạo. Điều mà chúng ta không thể tưởng tượng, đây là một cử chỉ chung chớ không phải cá nhân Thượng-Phẩm hay Hộ-Pháp mà lời giáo-huấn của Ngài cốt yếu để cho toàn thể nhân loại nơi mặt địa cầu này nhứt hơn hết là nòi giống Việt-Nam chúng ta.
Bần-Đạo nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu là người bạn Cao Thượng-Phẩm, và Bần-Đạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để, một đức tin vững-vàng làm sao đâu? Không thể sợ đặng, không còn biết vị kỷ nhục-nhã chi hết, giữa khoảng đường nơi Châu-Thành Sài-Gòn thiên hạ tấp nập, mà Đức Chí-Tôn buộc phải quì ngoài đường dựa bên lề ấy, quì đặng cầu-nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay! Ngài thử thách cho đến nước, thảng như mình quì đó mà thiên hạ không hiểu mình quì làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng có thể quì, còn làm mà người biết thì nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức Chí-Tôn phải rán mà làm.
Ngoài ra có ông bạn ai cũng đều biết là nhà thi sĩ danh tiếng, Bần-Đạo dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nỗi danh thi-sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi phú của Đức Chí-Tôn quá chừng quá đỗi, đến nước người thuộc lòng thi phú của Đức Chí-Tôn, rồi người họa lại với Đức Chí-Tôn, người làm như mê-man vậy. Bần-Đạo thì nhột nhạt duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi hành quyền giáo hóa của Đức Chí-Tôn, còn người thi sĩ Bồng-Dinh họa theo đó mà ngâm, thiên hạ thấy tấn tuồng dị hợm tụ lại đông lắm. Trước để một cái bàn Vọng Thiên Cầu Đạo ngay chính giữa coi dị hợm lắm, Bần-Đạo mới gát hai tay lên cho đỡ mắc cở vừa gát lên thì cái bàn quây gõ nói chuyện.
Các Đấng Thiêng Liêng đến không biết bao nhiêu, đến các vị Giáo-Chủ cũng xuống giảng dạy chúng ta và làm nhiều kiểu lạ lắm; cũng lúc nầy Đức Chí-Tôn đã giáo hóa khá lâu các Đấng Thiêng-Liêng cũng đến cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp, tuy mới mà đủ đầu óc có một đức tin vững-vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: Tuy buổi ban sơ mà dường như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi, nên Đức Chí-Tôn mới ra lịnh biểu làm một cái tiệc.
Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình, đãi 10 người: Đức Phật-Mẫu và Cửu Vị Tiên-Nương. Phần hữu hình có ba người: Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu vâng mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật-Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muổng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đãi người hữu hình vậy; duy có ba người xác thịt là Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp. Bần Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì? Ngài nói là Hội-Yến Diêu Trì. Bần Đạo nghe nói vậy thì hay vậy, chớ không biết giá trị Hội-Yến là gì cả. Nghĩ chắc cũng có ảnh hưởng gì cần yếu đến tương lai của Đạo mà vâng lịnh thôi, chớ không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.
Ba người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương-Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức Phật-Mẫu cũng như người sống kia vậy.
Bần-Đạo còn nhớ một chuyện lạ lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết, giờ biết Đạo mới hiểu Đức Chí-Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần-Đạo. Bây giờ Bần Đạo không dám nói lại, Ngài đến làm BẠN cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp.
Chừng Hội-Yến Diêu-Trì rồi, các Đấng Thiêng Liêng và các vị Giáo-Chủ ra từ giã (thăng) kế Đức Chí-Tôn đến nhập cơ.
Thượng-Phẩm và Bần-Đạo tọc mạch hỏi:
- Khi nãy Diêu-Trì-Cung đến có Ngài đến ở đó không?
Đức Chí-Tôn trả lời:
- Có chớ, Ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ.
- Ngài có thấy Diêu-Trì-Cung đến không?
- Có chớ, Chính mình ta tiếp đãi!
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Diêu-Trì-Cung ngó thấy Ngài không?
- Không ngó thấy.
Cao Thượng-Phẩm hỏi: - Sao vậy?
Ngài trả lời: - Ngài dùng phép ẩn thân.
Bần Đạo tọc mạch hỏi tiếp:
- Như đứa em của tôi là Thất-Nương Diêu Trì có thể đạt Đạo chăng?
- Đạt đặng chớ.
Cao Thượng-Phẩm hỏi: - Phải làm sao?
Ngài nói:
- Phải tu, bằng không tu thì chẳng đạt đặng.
Bần Đạo hỏi:
- Tu chừng bao lâu mới đạt đặng?
Cái đó Ngài làm thinh.
Bần Đạo hỏi:
- Một năm? Năm năm? Một ngàn năm? Mười ngàn năm? Một trăm ngàn năm?
Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các vị Nữ phái rán nhớ, Diêu-Trì-Cung, Bần Đạo có giải nghĩa Hội-Yến Diêu-Trì là gì rồi đó.
Toàn Thánh Thể Đức Chí-Tôn là con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Đạo bị bế Ngọc-Hư-Cung bác luật, Cực-Lạc Thế-Giới thì đóng cửa nên chúng sanh toàn cả Càn Khôn Vũ Trụ có tu mà thành thì rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn đạt pháp thì không phải dễ.
Cổ pháp định cho Chơn hồn về nơi Diêu-Trì-Cung, hưởng được Hội-Yến Bàn Đào tức nhiên hưởng được Hội-Yến Diêu Trì, ăn được quả đào Tiên, uống được Tiên tửu mới nhập vô cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.
Giờ phút này Đức Chí-Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài, thay vì Bí-pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim-Bàn Phật-Mẫu đặng hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Chí-Tôn.
Đức Chí-Tôn buộc Phật-Mẫu phải đến tại thế gian nầy để Bí-pháp Hội-Yến Diêu-Trì tại cửa Đạo nầy cho con cái của Ngài giải thoát, ấy là một Bí-pháp Thiêng Liêng duy có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.
Hôm nay là ngày Phật-Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm nay là ngày lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo, xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần Đạo cũng để ý đến lễ của Ngài hơn hết; từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ nầy. Ngài đến tại mặt địa cầu 68 nầy đặng tận độ con cái của Ngài.
Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên vô tận của Ngài, chúng ta phải chiêm nghiệm lễ nầy để làm mật niệm cám ơn Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu, ấy là Bí-pháp của chúng ta đó vậy."
Nhận xét về Lý Dịch:
Qua những lời Đức Thượng-Phẩm và Đức Hộ-Pháp cầu hỏi cho thấy rằng hai chi Đạo và Pháp đóng một vai trò rất là trọng-hệ, nên khiến cho Đức Thượng-Sanh và Ngài Bảo-Văn lập một đàn riêng (Thượng-Sanh nắm chi Thế) về sau hai vị này là cặp “Cơ Phổ-Độ”, còn Đức Thượng-Phẩm và Đức Hộ-Pháp là cặp “Cơ Đạo Pháp” (Thượng-Phẩm nắm chi Đạo, Hộ-Pháp nắm chi Pháp). Ấy là hiệp đủ Âm Dương, nhưng cả ba hiệp lại là Tam Tài, có thêm Ngài Bảo-Văn ấy là Tứ tượng. Khi đến con số Tứ tượng thì việc đạo-pháp mới biến hóa ra nhiều thêm.
(Xem lại trang 37 về những sự việc liên quan)
Nhưng ngay buổi đầu là có 7 người và Thất-Nương đến dạy trước nhất. Số 7 đây tượng trưng cho con người có thất tình. Nhờ Đạo mở người biết tu-hành nên biến Thất tình thành thất bửu. Cũng như trong Đền-Thánh, thì phía trong là bảy Ngai của Cửu-Trùng-Đài, ngoài là hình ảnh Thất Đầu-xà mà Hộ-Pháp đang ngự. Người Tín hữu dự cúng ngồi ở khoảng giữa (người có sẵn Thất tình) để dâng Thần cho Chí-Tôn, tức nhiên Cúng Tứ thời là luyện Tam bửu hay là luyện TINH KHÍ THẦN. Mà các Tôn giáo khác gọi là Thiền đó vậy. Như vậy Đền-Thánh không phải là một Thiền Đường sao? Tiếng gọi tuy khác nhưng ý nghĩa vẫn một mà thôi.
Thời gian sau người dự còn 6, tức là tam Âm tam Dương, là Càn Khôn định vị.
Đến nay, thì:
Trong buổi Tiệc Yến này có 9 Đấng Tiên-Nương vô hình và 3 người hữu hình, cộng chung là (9+3)=12
Số 9. Phải đợi đến 9 là cơ huyền-diệu nhiệm-mầu, huyền-diệu hơn hết là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện, tận mỹ, toàn năng, toàn tri.
Nó là 1+8 tức là cơ vận-hành trong trạng thái tĩnh được lý Thái-cực thúc đẩy thêm cho nên năng-tri sáng suốt
Nó cũng là 3+6. 3 và 6 là hai lý nhiệm-mầu và đều ở trong trạng-thái động.
Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay 3 bình phương là cấp bực tam ngôi biến-hóa, vận-hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.
Số 12 là số đặc-biệt tức là 9+3. 9 là cơ vận chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.
Thầy cũng dạy rồi:
“Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn-Khôn Thế-Giái, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.
Do vậy mà câu niệm danh Thầy có 12 chữ: “Nam mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” tức là thời kỳ tận độ này, câu niệm này gấp đôi thời kỳ Phật độ: chỉ niệm có 6 chữ mà thôi “Nam-mô A-Di-Đà-Phật”.
Tây-Ninh là Tỉnh thứ 12 của Thời Pháp thuộc tới bây giờ, hoàn toàn không đổi dầu qua bao sự biến thiên, nhưng Tây-Ninh vẫn là Tây-Ninh, mới ứng hợp với lời tiên tri của Thầy “Chi chi cũng tại Tây-Ninh mà thôi”.
Thầy nắm quyền chữ “Đạo” 道 có 12 nét.
Toàn bộ chu vi Đền-Thánh có 12 cửa.
Nếu cộng lại là 1+2 = 3 tức là ba ngôi đầu tiên.
Nếu tính theo hàng là 1 và 2 là lý Thái cực đứng trước luật âm dương thì thấy rõ quyền năng Chưởng-quản trong đó. Vì thế Thầy nói chi chi cũng có luật định, không vật chi ngoài quyền sở định của tạo-hóa hết.
Nếu tính luôn số người trong buổi tiệc được kể ra thì có Đức Phật-Mẫu vô hình, Đức Chí-Tôn thì ẩn danh, Bà Hương-Hiếu là người đứng ra thết đãi, cộng chung 15 người. Số 15 là con số nằm trong Bát-Quái Đồ thiên gọi là Ma-phương-số, con số này tạo thành chữ ĐIỀN 田
(Xem Dịch-Lý Cao-Đài quyển I cùng Soạn giả).
Chính chỗ này mà Thánh nhân nói đến thời Tam Hoàng là :Phục-Hi, Thần Nông, Hoàng-Đế.
Nếu ta hiểu rằng Phục-Hi là người đầu tiên sáng chế ra Đạo Dịch, tức là người làm sống lại niềm hy-vọng trong cuộc đời không được sao? Hôm nay Đức Cao-Đài đem Bát-Quái soi rọi vào tâm tư tất cả mọi người là chân lý đạo mầu đó. Còn Thần Nông là vị Thần dạy dân làm ruộng. Ruộng tức là Điền, nhưng ruộng có hai thứ:
- Ruộng đồng làm ra thóc lúa nuôi sống xác thân.
- Ruộng Tâm nuôi sống linh hồn (gọi là Tâm Điền) tức là tâm của Bát-Quái Hậu-Thiên và cũng là Bát-Quái Cao-Đài đó vậy.
Bài Kinh ăn cơm cũng nói rõ:
Công Thần Nông hóa dân buổi trước,
Dạy khôn ngoan học chước canh Điền.
Nhớ Ơn bảo mạng Huyền Thiên,
Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh.
Nếu chỉ có “ăn cơm” thôi thì làm sao “đoạt quyền vĩnh sanh” cho được? Phải khai Bát-Quái mới hiểu được lý nhiệm mầu của Đạo-pháp là bao la chứ ! Ngũ cốc đây chính là Tâm của Bát-quái là Ngũ-Trung. Đây dùng chữ “Ngũ Cốc” cũng không lệch nhau vậy.
Nếu cộng 1+5 = 6 tức là Thái-cực (Chí-Tôn) đứng trước Ngũ hành (Phật-Mẫu). Sự vận chuyển Âm Dương làm cho sanh biến vạn linh. Kinh Phật-Mẫu dạy:
Kể từ hỗn độn sơ khai,
Chí-Tôn hạ chỉ trước Đài Linh-Tiêu.
LƯỠNG NGHI phân Khí Hư-vô,
Diêu-Trì Kim-Mẫu nung lò hóa sanh.
Bởi Âm Dương là lò Tạo hóa, mà con người phối hợp nhau thì tế bào tinh trùng của người cũng như con vật đều có con số giống nhau. Một tế bào tinh trùng thì có một điện tử Dương hợp với 9 điện tử Âm.
Ngày 27-10-Ất Sửu (1925) Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng dạy ba Ông Vọng Thiên Cầu Đạo vào ngày mùng 1-11 Ất Sửu (dl 16-12-1925).
Thế nên ngày Vọng Thiên cầu Đạo ba ông phải cầm 9 cây nhang quì ngoài đường cầu xin Đạo vào ngày 1 tháng 11 năm Ất-Sửu, tức là ba con số 1 là cơ đắc nhứt đó vậy. Với ý-nghĩa là:
- Thiên đắc nhứt linh.
- Địa đắc nhứt minh,
- Nhơn đắc nhứt thành.
Sở dĩ Đức Chí-Tôn dùng phép ẩn thân, ấy là ngày mà “Cái trứng tinh thần của Đại-Đạo thành hình” để rồi:
Càn Khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.
Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,
Lập Tam tài định kiếp hòa căn.
(Kinh Phật-Mẫu)
“Hôm nay là ngày Phật-Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.”
Sự giải thoát này chỉ duy người tu học phải tìm hiểu nguyên lý của đạo mầu có trong đất trời và vạn vật đó vậy.
D- Cuộc đời của Thập-Nhị Thời-Quân Và Bài Thài hiến lễ
Thập-Nhị Thời-Quân tức là Thập-Nhị Thánh-Tông-Đồ của Chúa, xưa kia theo hầu Chúa, thì nay đến dưới thời Đạo Cao-Đài cũng chỉ giữ phận hầu Thầy mà thôi. Thập-Nhị Thời-Quân có tình mật thiết với Diêu-Trì-Cung.
Đối với nền Đại-Đạo rất đặc biệt là các bậc Chức-sắc cao cấp khi qui Thiên, liền giáng đàn cho một bài thi làm “Bài thài hiến lễ” riêng cho các Ngài:
1- Bốn vị Thời-Quân thuộc Chi PHÁP:
BẢO-PHÁP CHƠN-QUÂN
Nguyễn Trung Hậu (1892-1961)
Đạo hiệu: Thuần-Đức
Ngày sinh: năm Nhâm Thìn (1892)
Qui tại Gia định lúc 16 giờ ngày 7-9 Tân-Sửu (1961)
Quê quán: Xã Bình-Hòa, Tỉnh Gia Định
Chơn linh: Xích-Tinh-Tử
Bài thài hiến lễ
Nhà Phật hôm nay giữ Đạo mầu,
Phiền ba nghĩ lại có vui đâu.
Tẻ đường phi thị noi đườg tịnh,
Tìm cửa Từ-bi lánh cửa Hầu.
Xác thịt trải qua miền gió bụi,
Nắm xương chờ gởi bóng tang du.
Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn…
Giọt nước nhành Dương gợi tấm sầu.
(Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu)
Bài thài này còn nghi vấn, vì khi Ngài qui Tiên, an táng tại nhà.(*) Sau 13 năm hơn, Ngài báo mộng cho gia-đình xin Hội-Thánh đem hài cốt Ngài về Tây-Ninh cải táng. Hội Thánh làm theo sự yêu cầu. Cử đủ ban bộ về quê cải táng. Đặc biệt nhứt là khi táng nơi quê nhà thì đặt trong hàng nằm. Nhưng khi cải táng làm Lễ theo hàng Thời-Quân phải đặt trong Liên-Đài Bát-Giác của Hội-Thánh đem xuống. Thì lạ thay! Xác thịt Ngài hoàn-toàn như mới tắt hơi và những người Đạo-Tỳ tắm rửa lại bằng rượu thì “Gân xương còn nghe rôm-rốp” và dựng Thánh-hài của Ngài ngồi trong thế kiết-dà đặt vào Liên-Đài theo nghi thức Đạo táng với sự đưa rước bằng “Long-mã” hết sức trọng thể!
(Qua lời kể của Phó Trưởng-ban Nhà Thuyền Trung ương tên là Rùm. Kẻ viết bài này được anh đưa tới nhà Thuyền Trung ương xem hình, đồng thời cũng được đọc Thông-Tin Đại-Đạo, mới biết được sự việc này liền đến tìm Anh mà hỏi. Sự thật 100%).
Đối với Ngài Khai Pháp Nguyễn-Trung-Hậu ngoài những bài thơ được Đức Chí-Tôn giáng ban cho thuở tiền khai Đại-Đạo, ông lại còn diễm phúc, Đức Chí-Tôn giáng trả lời theo nhu cầu nữa.
Huyền diệu từ thuở ban đầu mới đủ đức tin:
Năm 1926 vì làm ăn sa sút, ngày 23-6-1926 (14-5 Bính Dần) Người có cầu hỏi Đức Chí-Tôn coi nên tiếp tục hay để cho sụp đổ, thì Thầy dạy :
THI
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo nhơn nghĩa miễn vuông tròn.
Thầy đâu nỡ để Môn đồ cực,
Mối đạo giữ cho ngàn thưở còn.
Đức Chí-Tôn
Đến ngày 21-7 Bính-Dần (04-08-1926) Người tự thấy không thể đứng vững được nữa với cái trường “Internat de Dakao” nên cùng với ông Đốc-học Đoàn-Văn-Bản thỉnh giáo Thầy một lần nữa (mỗi người thỉnh giáo việc riêng của mình) thì Thầy giáng cho mỗi người một bài thi, trong đó có bài thi cho ông Hậu. Tuy nhiên không phải mỗi việc nào cũng hỏi, dầu Thầy trả lời nhưng cũng có ý trách phiền..
THI
Cái khiếu thông minh con ở đâu?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc sầu.
Đức Chí-Tôn
Chỉ có hai Chơn-Quân: HẬU, ĐỨC có tên trong số 12 vị Môn-Đệ đầu tiên của Đức-Chí-Tôn được chỉ định:
THI
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu Đức Tắc Cư thiên địa cảnh,
Quờn Minh, Mân đáo thủ đài danh.
Đức Chí-Tôn
Trong 12 tên được điểm danh nhưng thực tế có 13 vị, vì có hai người trùng tên Sang và sau cùng thì Ông Chiêu tách riêng lập ra phái Chiếu-Minh nên rốt lại thì cũng đủ 12 người.
Vào khuya mồng một Tết năm Bính-Dần (dl 13-12-1926) khoảng giờ Tý, Ngài tái cầu thì Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng dạy rằng:
“Đức, Hậu tập Cơ sau theo mấy Anh mà độ người, nghe!”
Năm Bính-Dần (24-9-1926) Đức Chí-Tôn cho thi, điểm đúng tên: Nguyễn Trung Hậu bút hiệu Thuần-Đức một bài thi khoán thủ như vầy:
THI
THUẦN phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
ĐỨC hóa thường lao mạc dị danh.
HẬU thế lưu-truyền gia pháp quí,
GIÁO dân bất lậu tán thời manh.
Bài thi kế tiếp:
Đã có căn phần dựa cảnh Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi.
Đêm tối lần ra gặp ánh đèn.
Đức Chí-Tôn
Ngày 12-1 Đinh Mão (dl 13-2-1927) Ngài thọ Thiên phong BẢO-PHÁP.
Nguyên Đức Chí-Tôn có cho biết tiền thân của Ngài Bảo-Pháp là Xích-Tinh-Tử và của Ngài Hiến-Pháp là Từ Hàng Đạo Nhơn.
Ngày 3-7 Đinh Mão (31-7-1927) may được Quỉ Cốc Đại Tiên giáng đàn, hai Ngài mới xin cho mỗi người một bài thi kỷ-niệm.
Bài thi của Ngài Bảo-Pháp như sau :
THI
Đỏ đỏ một vừng ấy Hỏa tinh
Nhà Châu tên tuổi đã rành rành.
Tam Kỳ tái thế an thiên hạ,
Hậu nhựt thành công hậu hứng tình.
Quỉ Cốc Đại Tiên
Theo Châu tri ngày 7-3 Quí Dậu (1-4-1933) Ngài giữ Quyền Chưởng Pháp Cửu-Trùng-Đài.
Năm 1934, Ngài về dưỡng bịnh tại Gia Định (Cây Quéo).
Ngài hợp với Hiến-Pháp thành một cặp Cơ chánh thức phò loan cho Đức Chí-Tôn truyền Đạo các nơi: Cầu kho, Gò kén, Chợ-lớn, Gò công, Tân an, Mỹ-tho, Bến tre.
Lúc sanh tiền, thú vui của Ngài là làm thơ và cờ tướng.
(*) Nghi ngờ là vì khi an táng tại nhà thì không có cầu Cơ, nên Ngài không thể giáng mà cho bài thài được.