Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

HUYỀN DIỆU CƠ BÚT - CAO ĐÀI - ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ Phần ba

Đăng lúc: 02:05 AM 01/06/2018 0   1130

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...

HIẾN-PHÁP CHƠN-QUÂN
Trương Hữu Đức (1890-1976)

Đạo Hiệu; Thân Dân

Sanh ngày: 2-2 Canh-Dần (1890)

Ngày Qui: 20 giờ 15 ngày 15-12 Ất-Mão (dl 15-01-1976)

Chơn-linh: Từ-Hàng Đạo Nhơn.

Quê quán: Cầu An Thượng, Hiệp-Hòa, Chợ-Lớn.

Ngài Hiến-pháp là một trong những Tướng-Soái của Chí-Tôn, lúc qui thiên Ngài cũng giáng đàn cho một bài Thi để thài hiến lễ.

Bài thài hiến lễ:

Hữu-Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn mong ước cái không hay. 
Mừng nay gặp Đạo lòng mong muốn,
Chí quyêt cùng nhau để hiệp vầy.

Hiến-Pháp Chơn Quân

Cùng một lúc với Ngài Khai Pháp, Ngài Hiến-Pháp cũng được Quỉ cốc Đại Tiên giáng cơ cho biết nguyên linh của Ngài là Từ-Hàng Đạo Nhơn. Theo sự yêu cầu, Đại Tiên có cho một bài thơ:

THI

Thập Nhị Tiên gia nhứt tánh TỪ, 
HÀNG phong Vương mãn thọ hàn thư.
Trung niên thế cuộc tao vân mộng,
Quản thị Càn Khôn thủ Phật thư.

Quỉ Cốc Đại Tiên

Chính Ngài Trương Hiến-Pháp có biệt tài về làm liễn đối được Đức Lý Đại Tiên khen tặng là :Ai muốn xin liễn hãy tìm Đức. Chính hai câu liễn trên Thuyền Bác-Nhã do Ngài viết ra:

- Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh hoàn tại Thổ.

- Thiên niên tự hữu linh hồn thiên tứ phản hồi Thiên.

Trong khi Ngài nhập môn vào Đạo Cao-Đài ngày 9-01 Bính-Dần (dl 21-02-1926) Qua bữa sau, lúc đúng Ngọ, trong khi thanh tịnh, Ngài bắt chước Đức Hộ-Pháp ngồi chấp bút một mình và cầu nguyện xin thi, có vị Minh-Nghĩa Tiên Ông giáng bút cho bài thi như sau:

THI

Minh Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn mong ước cái không hay.
Mừng cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng nậu côn đồ đã chịu chay!

Minh-Nghĩa Tiên Ông

Ông Hữu Đức chỉ chấp bút được một ấy thôi.

 

KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN
Trần Duy Nghĩa (1888-1954)

Nguyên linh: Thánh Saint PIERE

Ngày sinh: 17-8 Mậu-Tý (dl 11-9-1888)

Qui lúc 3 giờ sáng ngày 22-01 Giáp-Ngọ (dl 24-2-1954)

Bài Thài hiến Lễ:

Đã chán công danh dưới phép người,
Đem thân cửa Phạm để nên nơi.
Lóng chuông Bạch-Ngọc hồi hồn tục,
Nghe trống Lôi-Âm tỉnh mộng đời.
Nắm pháp Thiêng-Liêng dìu Thánh vị,
Cầm Cân Công-lý giữ ngôi Trời.
Dầu chưa trọn nghĩa Thiên-Thơ định,
Giác ngộ vui theo cũng kịp thời.

Khai-Pháp Chơn-quân

Đức Hộ-Pháp nhắc lại buổi đầu Đức Chí-Tôn dạy “đi tìm Pháp”. Nhưng rốt lại đi tìm đúng Ông Trần Duy Nghĩa sau phong cho là KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN.

“Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí-Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nỗi sự nghiệp của Chí-Tôn đã giao phó.

Ngài nói rằng:

“Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt-Nam trên bốn ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí-Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt-Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ quốc và giống nòi dân tộc Việt-Nam sẽ cỗi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành.”

Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để không bao giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.

Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không bao giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung…

Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí-Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột.

Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì Quân Đội Cao-Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau làm đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt-Nam ta nữa mà chớ.

Tiền kiếp của Ngài là Thánh SAINT PIERE, tức là một trong 12 Thánh Tông-Đồ của Thiên-Chúa-giáo, ngày nay các vị Thánh ấy cũng trở lại trong hàng Thập-Nhị Thánh, tức là Thập-Nhị Thời-Quân trong cửa Hiệp-Thiên-Đài cũng giữ phận sự hầu Thầy mà thôi”.

Một hôm Ông Bà Đốc Phủ Chi, là người theo Đạo Công-giáo có đến nhà Ngài Cư, mục đích muốn thử xem vấn đề chơn giả của Cơ Bút, nên ông Bà có đề nghị:

“Xin cho chúng tôi để thử trên bàn Cơ hai vật này là Ảnh tượng CHÚA và Cây Thánh giá. Nếu Đức Cao-Đài là Thượng-Đế thật thì mới giáng Cơ được, bằng Quỉ Vương thấy hai vật báu này tự nhiên phải tránh”.

Ông Cư bằng lòng cho thử. Đoạn Ông Đốc Phủ cùng ngồi với Ngài Tắc để quan sát. Trước hết Thánh Pierre giáng Cơ cho 4 câu thi để trả lời cho Ông Bà Đốc Phủ Chi, vào ngày 17-11 Ất-Sửu (dl 01-91-1926)

Thánh giáng cho biết:

SAINT PIERE

Thiên đàng giữ cửa góc Trời Tây,
Truyền Đạo cho dân biết mặt Thầy.
Cứu chuộc đã gần đôi ngàn tuổi,
Cao-Đài phú thác dắt dìu bây.

(31 Decembre 1925)

Ngày 11-01 Bính Dần (dl 23-2-1926) Đức Chí-Tôn có giáng cho KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN:

THI

Đạo Tâm rỡ rỡ sáng như ngày,
Hiệp cũng may mà gặp cũng may.
Đã mộ trong lòng thân cũng mộ,
Một lòng mộ Đạo chớ đơn sai.

Đức Chí-Tôn

 

TIẾP-PHÁP CHƠN-QUÂN
Trương Văn Tràng (1893-1963)

Ngày sinh: 25-10 Quí-Tỵ (1893)

Qui lúc 5 giờ chiều ngày 15-01 Ất Tỵ (1965)

Quê quán: Bình Thạnh (Biên-Hòa)

Bài Thài hiến Lễ:

TIẾP điển Trời ban độ chúng sanh,
PHÁP luân thường chuyển rạng Thiên-Đình
CHƠN như đắc vị nhàn Tiên cảnh,
QUÂN Thánh Thần minh kiến Đạo thành.

Tiếp-Pháp Chơn Quân

Ngài Khai-Pháp Trần Duy Nghĩa và Tiếp-pháp Trương Văn Tràng là một cặp Cơ Phổ-Độ từ buổi khai Đạo. Khi Ngài Tiếp-Pháp lâm trọng bịnh thì Hội-Thánh cầu Cơ thỉnh ý cách trị liệu. Ngài Khai-Pháp dầu đã Qui Thiên, nhưng lúc nào cũng quan tâm đến bạn đồng môn còn tại thế. Ngài Khai-Pháp giáng Cơ dạy Hội-Thánh xuống nhà thương Crall rước Ông về Tòa-Thánh cầu nguyện và dùng thuốc Nam. Lời dạy ấy nhằm ngày 4-01-1964. Sau 7 ngày, làm đúng như lời dạy, bịnh tình Ngài Tiếp-Pháp khỏi hẳn.

Sau khi bình phục Ngài Tiếp-Pháp có làm mấy bài thi để tỏ lòng biết ơn tất cả đã lo cho Ngài:

 

THI

 
1-Đường đời khúc-khuỷu biết đâu lường,
Trên có Huỳnh-Nương hết dạ thương.
Khai-Pháp Chơn Quân huyền diệu lý,
Quần Tiên rưới phước hộ Thiên-lương.
 
2-Trời chiều bảng-lảng bóng thiều-quang,
Tiếng trống thu không giục khách nhàn.
Đoái lại chúng sanh thiên vạn ức,
Vẫn còn bận bịu với thời gian.
 
 

Tiếp-Pháp Trương Văn Tràng

 

2- Bốn vị Thời-Quân thuộc chi Đạo:

BẢO-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Ca Minh Chương (1850-1928)

Ngày sanh: năm Canh-Tuất (1850)

Ngày qui: 19-10 Mậu Thìn (dl 30-11-1928)

Bài Thài hiến Lễ:

Từ đây vui thú chốn nhơn gian,
Thủy tú sơn tinh thích chí nhàn.
Ví bởi lục căn lòng chẳng bợn,
Cho nên mới nhập đặng Tiên bang.

Bảo-Đạo Chơn Quân

Thời chưa khai Đại-Đạo: Ngày 21-02 Bính-Dần (dl 3-4-1926) Đức Chí-Tôn có giáng Cơ cho:

THI

Thế thượng hề vô bá tuế nhân,
Thất tuần dĩ định vấn Thời-Quân.
Ưu tư mạc vọng thường vô lộ,
Nghiệp trái tùy căn định số phần

Đức Chí-Tôn

Sự thương đau của Ngài Bảo-Đạo Ca-Minh-Chương là khi biết Đạo thì tuổi đã cao, vừa Nhập môn năm 1926 thì năm 1928 đã qui Thiên. Việc lập công chưa có là bao mà phải giã biệt cõi đời.

Điều thứ nữa là Gia cảnh quá tang thương. Cũng là do Thiên ý của Chí-Tôn, nên nhồi quả ba kiếp làm một.

Hãy nghe qua bài Điếu-văn của Đức Hộ-Pháp tả cái cảnh tình ấy:

Hỡi ơi!

Vợ già yếu, gái thì ngây dại,
Nối lửa hương ngó lại vắng người.
Theo linh-xa một gái chơi-vơi.
Phò giá triệu, bóng người không kẻ dậy.
Kìa thân tộc một nhà còn đấy 
Sao Anh không ngồi dậy nói đôi điều?
Để đau thương cho kẻ mến yêu, 
Nhìn nếp tử chín chiều ruột héo…

Đức Hộ-Pháp

Sự ra đi của Ngài Bảo-Đạo Ca-Minh-Chương làm cho Thầy là Đức Chí-Tôn Đại Từ-Phụ cũng thương tâm đổ lụy.

Phò loan: Hộ-Pháp và Bảo-Pháp

Ngày 19-10 Mậu-Thìn (30-11-1928)

Thầy,

Đại lụy! Cái thảm trạng chia lìa may ra có thể làm cho các con đau đớn mà biết thương yêu nhau chăng?

Thảm! Từ thử chỉ có một mình Bảo-Đạo là niên cao kỷ trưởng hơn các con hết mà buộc Thầy phải đem về, thì tưởng các con đã biết mình côi cút về đường Đời, không ai đủ trí thức hoàn toàn mà binh vực các con nữa, thì mới biết lập mình cho có đủ khôn ngoan, tài tình, đạo đức thì địa vị các con mới trở nên cao đặng.

Thầy đòi phen phải buộc lấy hình phạt mà làm ra phần thưởng, các con đã hiểu Đạo đặng chút ít, Thầy tưởng chẳng cần phải cạn lời. Thầy khuyên các con lấy CHƯƠNG làm dây thân ái mà buộc với nhau mới đặng hòa nhã nơi Hiệp-Thiên-Đài…

Đức Chí-Tôn có giáng cho bài thơ để an-ủi gia đình Ngài Ca-Minh Chương:

THI

Thấy con gia cảnh tợ tơ cuồn
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã-dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng,
Khiến nên Mai đảnh khơi màu trắng.
Cho đến Tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.

Đức Chí-Tôn

 

HIẾN-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Phạm Văn Tươi (1896-1976)

Hiệu: Lạc Nhân

Ngày sinh: năm Bính-Thân (1896)

Ngày qui: lúc 23 giờ đêm 8-4 Bính-Thìn (dl: 6-5-1976) tại Tư gia số 21 đường Lý-Nam-Đế Quận 5 Chợ-lớn (nhằm ngày Đản sinh Đức Phật Thích-Ca).

Không có Bài Thài hiến Lễ

Ngài di-chúc an táng tại quê nhà xã Qui-Đức, Quận Cần-Giuộc, Long-an. Thế nên không có bài Thài hiến Lễ cho Ngài.

Lúc ấy, năm 1976 (sau ngày 30-4-1975) tình hình Đạo-sự có nhiều khó-khăn nên Hội-Thánh cũng chiều theo ý của Ngài.

Ngày trước Đức Chí-Tôn có ban Thi cho Ông Phạm-văn-Tươi:

THI

Một nhà ân đức hưởng ân Thiên,
Mối Đạo từ đây đắc sở truyền.
Giáo hóa dày công giồi đức hạnh,
Cháu con sau hưởng phước liền liền.

Đức Chí-Tôn 
15-1 Bính-Dần (27-2-1926)

 

KHAI-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Phạm Tấn Đãi (1901-1976)

Hiệu: Trí-Thanh

Ngày sinh: 28-7 Tân-Sửu (dl 10-9-1901)

Ngày qui: 19-2- Bính-Thìn (dl: 21-3-1976)

Quê-quán: Làng mỹ-Lệ, quận Cần đước, Chợ-lớn.

Ngài Khai-Đạo Phạm-Tấn-Đãi đăng Tiên lúc 9 giờ 10 đêm 19-2 Bính-Thìn, ngay đêm sau Ngài giáng Cơ tại Giáo-Tông-Đường cho Bài thài để Hiến lễ cho Ngài.

Bài Thài hiến Lễ:

KHAI mở Đạo Trời độ chúng sanh,
ĐẠO mầu giải thoát giống dân lành
CHƠN truyền cố vẹn Đạo nhà vững,
QUÂN quản dân quyền dứt chiến tranh.

Khai-Đạo Chơn-Quân

Bước đầu vào Đạo: Vào ngày thứ Bảy: 19-12-1925 (nhằm ngày âm-lịch 4-11 Ất-Sửu) Người được ông Phủ Tương mời đến dinh, dự lễ khai đàn, có nhiều công viên chức đến dự.

Đêm ấy, Đức Chí-Tôn giáng dạy cho mỗi người một bài thi Tứ tuyệt. Riêng ông được bài thi như sau;

THI

Dằn lòng len-lỏi hãy Qui-y,
Nay gặp TA đây đã đến kỳ.
Oanh-liệt hồng trần e phải khổ,
Tầm dường đạo-đức lánh đường nguy.

Đức Chí-Tôn

Đúng một tuần sau: Thứ Bảy 26-12-1925 (nhằm ngày 11-11 Ất-Sửu, các vị ấy đến tư gia của Người để khai đàn và Đức Chí-Tôn thâu nhận Ngài nhập-môn và cho Thi:

THI

Nên gầy đạo-đức đặng hồi nguyên,
Un đúc trẻ thơ sửa tánh hiền.
Nương bút Thiên-cơ lo độ chúng,
Dìu người gắng bước đến rừng Thiền.

Đức Chí-Tôn

 

TIẾP-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Cao Đức Trọng (1897-1985)

Đạo Hiệu: Chánh Đức

Ngày sinh: 20-4 Đinh-Dậu (1897)

Ngày Qui: 23-5 Mậu-Tuất (1958)

Đạo hiệu: Có hai: Chánh-Đức và Huyền Hạo Đạo-nhơn

Đức Tiêu-Diêu Đạo-sĩ giáng tặng cho Đạo hiệu này:

“CHÁNH khí tà gian khủng.
“ĐỨC trọng quỉ thần kinh.”

Ngày 3-6 Mậu-Tuất (dl 19-7-1958) Ngài Cao-Tiếp Đạo có giáng Cơ :

Chào Anh Bảo-Pháp, Thượng-Sanh và mấy em,

Bần-Đạo để lời cám ơn toàn Bạn Hiệp-Thiên-Đài, toàn cả Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài và toàn Đạo Nam Nữ đã lo-lắng cho Bần-Đạo, khi Bần-Đạo về với Đại-từ-phụ. Đó là nghĩa thịt xương.

Vậy Bần-Đạo có mấy lời.

Bài Thài hiến Lễ:

Cỗi xác phàm vui lại cảnh Thiên,
Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
Trường Đời dầu chẳng tròn Nhân-Nghĩa,
Nợ Đạo rồi xong gát bút nghiên.
Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh Túy,
Chơn mây ngẩn chạnh Bạn rừng Thiền.
Từ đây dạo khắp trời non nước,
Nâng giúp quần sanh hưởng huệ duyên.

Tiếp-Đạo Chơn-Quân

Bần-Đạo được nhờ Phật-Mẫu và Cửu Vị Tiên-Nương giao cho phận sự Thiêng-liêng Phổ-độ khắp miền Á-Châu, nhưng dầu sao Bần-Đạo cũng hiệp với mấy Đấng Thiêng liêng tiền bối của Đạo trông nom và trợ giúp mấy Bạn Hiệp-Thiên-Đài làm tròn nhiệm vụ.

Bần-Đạo xin khuyên Em Thượng-Sanh khuyên giải Bà Thân mẫu của chúng ta. Anh đã hưởng trọn Thiên ân của Đức Chí-Tôn. Đó là một điều vui chớ chẳng phải việc buồn. Bần Đạo kính chào cả mấy Bạn. Thăng.

(Đặc biệt trong gia-đình của Ngài đều giữ phẩm tước yếu trọng cửa Đạo Cao-Đài. Bà Mẹ là Đầu-sư Hồ Hương Lự qui thiên sau các người con.

Ngài Cao-Đức Trọng phẩm Tiếp-Đạo Chơn Quân là Anh thứ hai

Người Chị thứ ba là Cao Hương Cường, phẩm Giáo-Sư (Cửu-Trùng-Đài).

Ngài Cao Hoài Sang, phẩm Thượng-Sanh là thứ tư trong gia đình. Cả hai Ông cùng đứng vào Cơ quan Hiệp-Thiên-Đài.

Một lỗi-lầm chịu phạt:

Trong thời gian hành Đạo, không biết tâm ý của Ngài Cao Đức Trọng có lầm lỗi gì mà Ngài có giáng Cơ xin lỗi và từ giã Mẹ để đi đầu thai:

Phò-loan: Thượng-Sanh và Bảo-Văn Pháp-Quân.

CAO ĐỨC TRỌNG

Từ giã đêm 01 rạng 02 tháng 03 năm Canh-Tý (1960)

Thưa Mẹ,

Con cúi đầu lạy Mẹ, Qua mừng hai Em và Quí hữu. Mời quí hữu xuất ngoại để có tỏ việc riêng.

Thưa Mẹ,

Hôm nay con đến đây với thâm tình mẫu-tử, hầu tỏ nỗi niềm tâm sự, mặc dầu vô hình khác cảnh, nhưng Ơn cúc dục sanh thành nghĩa nặng đeo mang, lòng bác ái của Mẹ vô hạn. Bởi công đức lớn và tâm trung của Mẹ đối với Ngọc Hư-Cung và các Đấng đều ghi. Hơn nữa đối với Thiên quân trọn nghĩa chung thủy nên quyền Thiêng-liêng ân tứ cho con được trở về thăm, tỏ nỗi tâm sự khổ đau bởi vì lòng thương vô hạn: Mẹ hằng cầu khẩn vái van mà động lên lòng các Đấng.

Khi con còn tại thế, vì mang xác phàm không gìn tròn sứ mạng nên có sự lỗi-lầm! Bên ngoài thế tục còn qua được, nhưng về tâm sự nơi lòng người khó tránh lẽ công bình, luật Thiên-điều nhặc nhiệm.

Sự oan nghiệt tâm phàm của con rủi một chút mà linh hồn con phạm Thiên Điều. May nhờ công tu-luyện và tâm trung vì Đạo nên an-ủi đó chút!

Khi lãnh lịnh Ngọc-Hư-Cung xuống thế, có bổn phận phải giúp Ngự-Mã-Quân mà ngược lại không tròn Nghĩa, vì nặng mang phàm tục lôi cuốn, quên hẳn Thiêng-liêng cao trọng…Ôi! Phàm tục! Vì mi mà làm Ta lầm-lạc, chẳng hiểu đặng rằng Ngự-Mã là mạng lịnh của Khí Hư-vô thay thân Chí-Tôn tạo đời cải dữ ra hiền.

Mẹ ơi! Một lời nói sai với Ngự-Mã cũng bị đọa, huống chi sửa cải chơn truyền tội trọng dường nào! Sự lỗi lầm của con nay việc đem Em về tước quyền Thiên-Quân nên gánh lấy tội-lỗi. Tưởng lúc lâm chung đày đọa xác thân vậy thôi. Nào dè, linh hồn chịu án Thiên-Điều! May nhờ ơn Đức Ngự-Mã đầy lòng Từ-bi Bác-ái vị tha đến thức tỉnh và an-ủi con. Nhứt là Đức Ngài không nói đưa Giáng-Ma-xử. Hai nữa nhờ Đức Thượng-Phẩm và Lục-Nương dìu độ.

Đức Ngự-Mã, Ngài cầu xin với Ngọc-Hư cho khỏi bị tiêu diệt linh hồn để tái kiếp đền lại những lỗi-lầm mà nợ tình của hàng vạn linh-hồn cùng Thánh-Thể Chí-Tôn mà con đã gây ra.

Rồi đây không biết đến nơi nào với một kiếp sanh để đền nợ. Nếu chẳng may vương mang sự lỗi-lầm thì con chưa cỗi xác tục đây, phải đợi mãn kiếp sanh mới và thọ lịnh hoặc tội đày hoặc tái kiếp. Từ đây tình cốt nhục cũng như Mẫu-tử biết ngày nào hội ngộ trùng phùng đền ơn tái tạo?

Con quì lạy Mẹ an tâm.

Những di tích chi của Thiên quân, phải cố giữ đừng sửa đổi mà phạm Thiên-Điều như Qua đã làm.

Con cúi đầu lạy Mẹ và chào hai Em! Thăng

Ngày 10-10 Canh-Dần (dl19-11-1954) Đức Quyền Giáo-Tông giáng Đàn nói chuyện với Ngài Cao Tiếp-Đạo về cơ Đạo, Đức Ngài có cho Thi:

THI

Lưỡi liềm chi dễ sánh Kim câu,
Gây sự bởi ai tạo buổi đầu.
Đông hải mênh mông còn phải cạn,
Tây Hồ chật hẹp độ bao sâu?
Tài ba Động Bích bao nhiêu sức,
Quyền phép Côn-Lôn sẵn mấy bầu.
Quyết đoán cuộc cờ ai thắng bại,
Chỉn xem Tiên Phật hướng về đâu?

Đức Quyền Giáo-Tông

3- Bốn vị Thời-Quân thuộc chi THẾ:

BẢO-THẾ CHƠN-QUÂN 
Lê Thiện Phước (1895-1975)

Ngày sanh: năm Ất-Mùi (dl 4-6-1895)

Qui: lúc 6giờ 30 sáng ngày 17-3 Ất-Mão (dl 28-4-1975)

Bài thài hiến lễ:

BẢO trọng Vạn linh hiệp Chí-linh,
THẾ nguy chuyển loạn lập Hòa-bình.
CỨU Đời mở Đạo kinh-luân sẵn,
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.

Bài thi này được Đức Hộ-Pháp khen tặng, Đức Ngài giáng ban cho thi 15 năm trước Ngài Bảo-Thế Qui Thiên. Khi qui Thiên Hội-Thánh dùng bài thi này Tế điện, hiến lễ cho Ngài.

Ngài ngọa bịnh nằm cũng khá lâu, nhưng khi vừa lúc 30-4-1975 thì Ngài Qui. Bảo-Thế là giữ Đời. Đời đã không giữ được thì Ngài cũng ra đi thôi. Ngài ra đi giữa sự thay đổi đất trời như vậy thì cũng khó mà lập Đàn Cơ được!

Phải chăng Đức Hộ-Pháp đã chuẩn bị trước cho Ngài Bảo-Thế và cũng giải quyết được sự khó khăn cho Hội-Thánh chăng?

Việc này Ngài Chơn Cực Lão-sư cũng đã tiên-tri rồi

Đức Ngài giáng Cơ nói:

Ê! Hoạch, nhà Toa (Toi) có nuôi con mèo mun phải không? Nghe thi:

THI

Mèo mun ngồi tựa gốc mùn meo,
Trèo đái trên cây bẻ trái đèo.
Lách trật khỏi nhào vỡ lật trách,
Leo ra chủ rượt chạy la reo.

Chơn-Cực Lão-Sư

Chính bài thi tiên tri này cũng thú vị lắm. Đoán đúng vào tình trạng đất nước Việt-Nam lúc bấy giờ .Như vậy thì đừng trách sao rằng Thiêng liêng không nói trước, chẳng qua là nói bằng những vần thơ “Huyền bí “ mà thôi.

Đàn đêm 6-2- Ất Tỵ ( 8-3-1965)

Tại Giáo-Tông-Đường lúc 20 g30p

Đức Hộ-Pháp ban thi cho Ngài Bảo-Thế Lê Thiện Phước:

THI

Quyền uy nhờ bởi giữ chơn truyền,
Chưởng đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.
Quản quán chúng sanh tu cội phúc,
Hiệp hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.
Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,
Đài nội tuyển thăng thánh đức lên.
Thừa thế chuyển nguy an thánh địa,
Mạng trời đâu để quỉ hành quyền.

Đức Hộ-Pháp

 

HIẾN-THẾ CHƠN-QUÂN
Nguyễn Văn Mạnh (1894-1970)

Sinh ngày: năm Giáp-Ngọ (dl 19-12-1894)

Qui thiên: 15-1-Canh-Tuất (dl 15-1-1970)

Quê-quán: Tân Niên-Trung. Tỉnh gò-Công

Bài Thài Hiến Lễ:

HIẾN mình cho Đạo buổi sơ khai
THẾ cuộc càng xây dạ chẳng nài,
CHƠN chánh quyết tâm lo lập Đức.
QUÂN Thần vẹn nghĩa cảm bi-ai.

Hiến-Thế Chơn-Quân

Thuở mới khai Đại-Đạo, vào ngày rằm tháng 3 Bính-Dần, cùng một lượt có các Ông được Đức Chí-Tôn phong vào các Phẩm này để phò cơ:

- Ông Phạm Công Tắc là “Hộ giá Tiên Đồng giá cơ Đạo-Sĩ.”

- Ông Cao Quỳnh Cư là “Tá cơ tiên hạc Đạo-sĩ”.

- Các vị: Đức, Hậu, Nghĩa, Tràng, Tươi, Chương, Kim, Đãi, Mai, Nguyên, Phước, Mạnh đồng được Chí-Tôn ban cho là “Tiên Đạo phò Cơ Đạo-Sĩ”.

Sau tất cả các vị này đều được phong vào Thập-Nhị Thời-Quân. Duy chỉ có hai vị này không đến là Mai và Nguyên, do đó Đức Chí-Tôn thay thế người khác vào là Vĩnh và Trọng.

 

KHAI-THẾ CHƠN-QUÂN
Thái Văn Thâu (1899-1981)

Ngày sinh: năm Kỷ Hợi (1899)

Qui Thiên: Lúc 5giờ 30 chiều ngày 2-6 Tân-Dậu (dl 3-7-1981)

Ngài Khai-Thế Thái-Văn-Thâu bị bịnh tâm thần kéo dài. Sau cùng qui tại Tư gia Xã Qui-Đức (Cần-giuộc).

Không có bài thài hiến lễ.

Ngài là người cùng quê nhà với Ngài Hiến-Đạo Phạm-văn-Tươi. Thời trẻ hai người là bạn với nhau.

Đầu năm Bính-Dần (1926 ) một đàn Cơ ở Tân-Kim (Cần giuộc) tại nhà ông Hội-đồng địa hạt Nguyễn văn-Lai, ông Đốc Phủ Nguyễn văn Tương (Chủ Quận Cần giuộc) và ông Lê-văn-Lịch (Vĩnh nguyên tự) chứng đàn.

Hai ông Ca Minh Chương và Phạm Văn Tươi phò loan. Ngài Thái Văn Thâu có đến hầu đàn và được Đức Chí-Tôn thâu làm Môn-Đệ.

Khi Đức Chí-Tôn lập Pháp Hiệp-Thiên-Đài ngày 12-01 Đinh-Mão (dl 13-2-1927) Ngài Thái-Văn-Thâu đắc phong KHAI THẾ HIỆP-THIÊN-ĐÀI.

Ông cũng làm việc đắc lực trong Hội-Thánh, nhưng vào năm 1941, Đức Hộ-Pháp cùng với 5 vị Chức-sắc bị nhà cầm quyền Pháp bắt lưu đày sang Madagascar (Phi Châu), lính Pháp vào chiếm đóng Tòa-Thánh. Ông lui về quê nhà ở xã Qui Đức an dưỡng, thì cơn bịnh tâm thần kéo dài, bất thường.

Ông Qui tại tư gia lúc 5 giờ 30 chiều ngày 2-6 Tân Dậu (dl 3-7-1981) Hưởng thọ 83 tuổi. Đại diện Hội-Thánh và Ban Cai-quản Thánh Thất Cần giuộc tổ chưc lễ an táng tại quê nhà.

Ngài Khai-Thế Thái-Văn-Thâu là vị Thời-Quân đăng tiên sau cùng trong số 12 vị Chơn-Quân. Gặp lúc hoàn cảnh đất nước đổi thay, Đạo quyền nghiêng ngửa, Hội-Thánh và các cơ quan Hành-Chánh-Đạo bị giải thể, không thể di Thánh hài của Ngài về an táng nơi Thánh Địa được, đành phải an táng theo nghi thường tại quê nhà của Ông tại Xã Qui Đức (Cần-giuộc).

 

TIẾP-THẾ CHƠN-QUÂN 
Lê  Thế Vĩnh (1903- ?)

Ngày sinh: Năm Đinh-mão (1903)

Ngày qui không có, vì ngài Tiếp Thế bị đối phương bắt đang trên đường hành Đạo năm 1945 rồi mất tích luôn, nên không biết ngày qui thiên là ngày nào!

Không có Bài Thài hiến Lễ:

Phần Đạo:

Trong năm 1925 nghe tin nhà ông Cao Quỳnh Cư cầu cơ thỉnh được Tiên về cho thi hay lắm. Vì là nhà báo, ông muốn làm một thiên phóng sự đặc biệt về Cơ Bút. Một hôm, Ngài cùng ông Phạm Minh Kiên đến viếng ông Cư, đang lúc có Đấng AĂÂ giáng. Ông Cư xin cho hai ông mỗi người một bài thi để kỷ-niệm. Đấng AĂÂ gõ cơ đáp:

- Để Bần Đạo cho chung hai người một bài thi mà thôi.

THI

Một viết một thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang
Đạo đời ví biết đời là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

Bài thi chỉ có 4 câu mà gồm đủ hình trạng tâm sự của hai nhà báo. Nhờ đó mà Ngài mới chịu theo Đạo.

Khi Khai Đạo ở Gò Kén ngày 15-10 năm Bính Dần. (dl 19-11-1926) Hai ông Mai và Nguyên vì không đến hầu đàn phong Thánh tại chùa Gò Kén nên sau đó hai ông khác đến thế vào và đắc phong trong hàng Thập-Nhị Thời-Quân: Hai ông ấy là Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh và Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (theo Đạo Sử Cơ bút của Ngài Trương Hiến Pháp).

Sau đó thì Ngài nghỉ viết báo, về Tây-Ninh làm việc nơi Văn phòng Đức Quyền Giáo-Tông. Khi xảy ra Hội Vạn linh (?) do ông Nguyễn Phan Long làm Nghị trưởng thì Ngài đại diện cho Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp. Năm 1934 Ngài được đi hành đạo Bắc Việt.

Trong tình trạng xáo trộn của đất nước năm 1945, Ngài bị đối phương lừa gạt đưa Ngài từ Sài gòn lên Đà Lạt rồi mất tích luôn.

E- Thầy bắt đầu dạy Đạo

Tháng 12 năm Ất Sửu (dl 02-1926) Đức Chí-Tôn dạy Đạo. Ngài giáng Cơ nói:

“Nếu muốn cho TA để tận-tâm truyền đạo-lý, thì hết thảy đều phải kỉnh TA làm “Thầy” mới tiện bề đối đãi nhau.”

Mùng 9 tháng 11 năm Ất Sửu (24/12/1925): Nhân Lễ Chúa Giáng sinh, các ông hội họp tại nhà ông Cao Quỳnh Cư và cầu cơ. Thất-Nương giáng cho biết Đức Thượng-Đế sắp khai đạo cứu đời và còn dạy quý ông nên nhân dịp nầy cầu nguyện xin với Đức Cao-Đài Thượng-Đế ban ơn cho nhơn loại. Quý ông liền thực hành theo và mỗi người đều để hết tâm thành cầu nguyện. Lễ xong, quý ông cầu cơ có Đức Cao-Đài Thượng-Đế giáng dạy đạo và xác nhận ngày nầy chính là ngày mà Người đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây. Kế tiếp Đấng AĂÂ, Lý Thái Bạch, Đỗ Mục Tiên và Lục-Nương giáng cho thi.... (Thông Tin xuân Quí Sửu 1973, trang 37)

Qua các đêm sau, các Ngài cũng lập hương-án, đủ Lễ nghi mà cầu Đức Thầy đến.

Đức AĂÂ giáng vào cơ mà chỉ dạy:

“Từ buổi Hồng-Mông, nhứt khí Hư-vô phân Lưỡng Nghi, sanh Tứ-Tượng, chia Bát-Quái, rồi mới biến hóa Nhựt, Nguyệt, Tinh-tú và 72 Địa-cầu, mà tạo thành Càn Khôn Thế-Giái”.

Ngài lại giải rằng:

"Lúc khí Hư-vô sanh Lưỡng-Nghi: Dương-khí thăng lên, biến ra Ngài; Âm-khí hạ xuống, biến ra Kim-Mẫu Nương-Nương".

Đấng Huyền Khung Cao-Thượng-Đế đã tá phàm nhiều lần rồi mà dìu Đạo nơi Á-Đông, lại giáng-sanh khai Thánh Giáo miền Thái-Tây nữa. Nay vì đã rốt cuộc tuần huờn thì giờ đã cùng tận trong buổi Hạ-Ngươn nên Đức Ngài đến hoằng-khai Đại-Đạo, chuyển các Tôn Giáo lại thành một mối duy nhứt gọi là “Tam giáo Qui nguyên Ngũ Chi phục Nhứt” hầu dìu-dẫn nhân sanh, tức là mở cơ tận độ chúng sanh qui nguyên vị.

Trước mặt ba vị:

Cao Quỳnh Cư. Phạm Công Tắc. Cao Hoài Sang.

Ngài hỏi rằng:

“Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng?”.

Ba Ông bạch rằng:

“Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo lý chi, duy nhờ Đức Chí-Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết chưa đặng trong muôn một, e cho chẳng xứng đáng mà lãnh trách-nhậm lớn lao ấy”.

Đức Ngài nói rằng:

“Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi.”

Khấn vái xong rồi thì vào nhà phò loan, Đức Chí-Tôn giáng dạy như vầy:

“Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo Thiên lập Địa, Thầy sanh loài người ra, nhằm ngày Dần “Nhân sanh ư Dần”. Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, còn Thầy thì Tá-danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.”

Rồi cứ diễn tiến như vậy mà Thầy đến dạy:

THẦY

Một cuộc phồn hoa biếc sắc xưa,
Niên cao trở gót thảm khi vừa.
Công danh đã đủ còn mơ ước,
Một cuộc tang thương đã thấy chưa?
Gia đình oằn oại gánh đôi vai,
Thế cuộc nên hư cũng một tay.
Chưa mãn xuân mai đơm lá bích,
Ngày xuân đừng ỷ phận còn dài.

Chưa biết buổi đua chen, mà đã gặp nhiều khi thất nguyện. ( 01-02-1926)

 

THẦY

Cư, Tắc: Hai con ham cười, Thầy sẽ cho cười một phen cho đã, lập chí cho nghiêm, phòng sau mới dạy người, nghe hai con!

Trung xin phép cho Cư, Tắc vô cùng Thầy xin độ Tương, Kiêm. (Nghĩa là qua tháng 2-1926 mà anh Phủ Tương chưa nhập môn, nên Anh Cả xin cho hai ông Cư, Tắc độ Tương là cớ ấy).

 

THẦY

“Mừng thay” chớ! (Mỗi lần Thầy giáng thì đọc bài “Mừng thay”, nay ba ông quên đọc Thầy nhắc).

THI

Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Đạo đời tua biết đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.

Nghĩa là sắp nhỏ của con dạy, sau cũng nên người ở đời, ấy là đời nếu biết trọng đời thì gắng dạy nó nên hiền.

Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng hiền.

Nhận xét: Thầy xem việc nhơn luân là hệ trọng, nên rất chú ý từ những việc thật tế vi, hầu như không một điều gì mà Thầy không dạy

 

Đêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl. 12-02-1926)

THẦY cho ông Cao Quỳnh Cư

Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu cái dại mới là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

Cư, Tắc, Sang! Trong năm mới này Thầy trông mong ba con rõ thấu đạo đức hơn nữa, gắng chí nghe!

THẦY cho thi Quan Phủ Vương Quang Kỳ

Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề Đạo dữ tân.
Vô lao công quả tu đương tác,
Niên quá niên hề Đạo tối tân.

THẦY cho ông Lê Văn Giảng

Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe nơi Đại-Đạo rán nghe luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy tuôn.

THẦY cho ông Nguyễn Trung Hậu tự Thuần Đức

THI

THUẦN phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
ĐỨC hóa thường lao mạc vị danh.
HẬU thế lưu truyền gia pháp quí,
GÍAO dân bất lậu, tán thời manh.

THI

Đã có căn phần dựa cảnh Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi,
Đêm tối lần ra gặp ánh đèn.

Đức Chí-Tôn (24-6-1926)

Thi cho Thanh Thủy (Cao Hoài Sang)

Bước đời chìm nổi bấy nhiêu niên,
Tâm chí ghe phen dập lửa phiền.
Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.
Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,
Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.
Nín nẩm chờ ngày tiền quả sạch,
Trau giồi đạo hạnh hưởng ân Thiên.

Diêu Trì Nương Nương (3-7-1927)

THẦY cho thi ông Đoàn Văn Bản

Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.

THẦY cho thi ông Lê Văn Trung

Đã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm xích dẫn lên đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sao ra vạn dặm trường.

Thăng

Ngày 13-02-1926 ( âl. 01-01-Bính Dần) giờ Tý: Đức Chí-Tôn giáng dạy về cơ Phổ hóa.

Khuya mùng 1 Tết năm Bính Dần (13-2-1926), giờ Tý, tái cầu Đức Thượng-Đế giáng dạy rằng:

Đức, Hậu tập cơ sau theo mấy anh mà độ người nghe và tuân theo.

Ấy là lời Thánh giáo và ngày kỷ niệm khai Đạo Cao-Đài về cơ Phổ hóa, ngày mùng 1 Tết năm Bính Dần giờ Tý vậy (13-2-1926).

Qua đến ngày mùng 9 tháng Giêng (21-2-1926), nhằm ngày Vía Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Quan Phủ Vương Quang Kỳ có thiết Đàn riêng tại nhà ông số 80 đường Lagrandière (bây giờ là đường Gia Long). Đêm ấy có mời Chư Nhu và mấy vị Đạo Hữu hầu Đàn, Thượng-Đế giáng cơ dạy như vầy:

Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắt đến cùng Ta.

Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Đạo Thầy.

Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gỗ nghe. Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.

Khi ấy, Quan Phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng-Đế lấy tên mấy người đệ tử mà cho một bài thi kỷ niệm.

 Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.
招 旗 忠 度 引 懷 生
本 道 開 創 貴 講 成
厚 德 則 居 天 地 境
還 明 旻 到 守 臺 名

Thượng-Đế lại phán: "Hườn, Minh, Mân sau sẽ rõ..."

Nguyên 12 chữ lớn trong ba câu trên là tên của 12 vị Môn Đệ trước hết của Thượng-Đế. Có hai tên Sang, Thầy điểm chung một tên.

Còn ba chữ lớn câu chót là tên ba vị Hầu Đàn.

Thế rồi, ngày 1-1 Đinh-Mão (dl 1-2- 1927)

Thầy giáng cơ có để lời than:

“Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào không? Còn nay ra thế nào chăng?

…Thầy lập Đạo năm rồi ngày này, thì Môn-đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền-hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có 6 đứa Môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ.

Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết cả bốn muôn Môn-đệ của Thầy ..”

Luận Giải12 Môn-đệ có tên trong bài thi kể ra sau đây:

1- CHIÊU: Ngô Văn Chiêu.

2- KỲ: Vương Quan Kỳ, đắc phong Thượng Giáo Sư.

3- TRUNG: Lê Văn Trung, đắc phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, sau thăng Quyền Giáo-Tông.

4- HOÀI: Nguyễn Văn Hoài, tức là ông Phán Hoài.

5- BẢN: Đoàn Văn Bản, đắc phong Thượng Giáo Sư.

6- SANG: Cao Hoài Sang, đắc phong Thượng-Sanh.

7- SANG: Võ văn Sang (Hai người điểm chung một tên)

8- QUÍ: Lý Trọng Quí.

9- GIẢNG: Lê Văn Giảng, đắc phong Thượng Giáo Hữu.

10- HẬU: Nguyễn Trung Hậu, đắc phong Bảo Pháp.

11- ĐỨC: Trương Hữu Đức, đắc phong Hiến Pháp.

12- TẮC: Phạm Công Tắc, đắc phong Hộ-Pháp.

13- CƯ: Cao Quỳnh Cư, đắc phong Thượng-Phẩm.

Ngài Ngô Văn Chiêu tách khỏi nhóm Phổ độ của quí Ngài Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc để chuyên bề tu đơn, sau đó Ngài Ngô Văn Chiêu về Cần Thơ lập Chi phái Chiếu Minh.

Hai Ông Nguyễn Văn Hoài và Lý Trọng Quí theo Ngài Ngô Văn Chiêu tu trong phái Chiếu Minh, sau Ông Lý Trọng Quí (cũng có tên là Hồ Vinh Quí) lại tách riêng lập Chiếu Minh Đàn Cần Thơ, có ra cuốn Kinh Tam Nguơn Giác Thế vào năm Tân Mùi (1931).

Ông Vương Quan Kỳ tách khỏi Tòa-Thánh Tây-Ninh vào năm 1930, lập Chi phái Cầu Kho ở Sài Gòn.

Trong đàn Cơ tại Phạm-Nghiệp ngày 20-9 Quí-Dậu (dl 7-11-1933) xin trích một đọan nói về Ngài Ngô Văn Chiêu:

Hộ-Pháp bạch Thầy: Dạ thưa thầy, con không biết tại sao khắp nơi đều có Cơ Bút mà mỗi lần đều xưng danh Thầy, không lẽ Thầy lại đến với Cơ bút ấy?

(Ý nói về Cơ Bút của những người đã tách khỏi Tòa-Thánh ra mà lập Chi phái. Cầu Cơ có các Đấng giáng)

Thầy đã nói rằng: Duy có cái Ngôi của Thầy chúng nó không dám dựa, chớ danh Đạo Thầy nó có phép dùng, nên dặn rằng: Đừng nghe Cao-Đài nơi này, Cao-Đài nơi khác mà tin cho ra thất thệ. Đến đỗi hồn ma thằng Chiêu, chúng nó còn lợi dụng, lừa gạt các con thay! Thì còn danh ai mà nó từ bỏ?

Cười! Tắc, Con tối trí quá!

Giải-nghĩa:

Câu 1: CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh

Bốn vị: Chiêu, Kỳ, Trung, Hoài có phận sự độ dẫn nhơn sanh. Ngoài ra còn có nghĩa là Kỳ ba phổ-độ này, độ cả thai nhi còn trong bụng mẹ.

Câu 2: BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành:

Nền Đạo do Đức Chí-Tôn mở ra vốn được quí trọng là phải giảng-giải cho mọi người cùng biết, tức nhiên phải Phổ độ.

Câu 3: HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên Địa cảnh:

Bốn vị: Hậu, Đức, Tắc, Cư chính được sản xuất từ nơi Thiên Địa cảnh, nghĩa là Người được Đức Chí-Tôn chọn lựa trước, là những lương sanh đến để cứu vớt quần sanh

Câu 4: HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh

Ba vị: Huờn, Minh, Mân đến giữ cái đài của Ta. Tên của ba vị hầu đàn

Về con số thì tất cả là 12 vị Đệ-Tử đầu tiên có mặt trong hôm ấy. Số 12 là con số của Thầy, Thầy có nói:

“Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay.Số 12 là số riêng của Thầy”

Nhưng nếu cộng với ba tên hầu đàn nữa thành ra số 15. Chính là con số Ma-phương của Phật-Mẫu, nằm ở giữa Bát-Quái Đồ Thiên, nó xếp thành chữ ĐIỀN 田

Nếu nói rằng kể tên cả hai người tên Sang là số 13 rồi cộng thêm ba vị hầu đàn sẽ có số 16. Con số này bằng hai lần 8, tức là biểu thị bằng hai Bát-Quái mà Đạo Cao-Đài đang xử dụng. Ấy là:

- Bát-Quái Đồ Thiên tượng cho Thể-pháp Thiên Đạo

- Bát-quái Hư vô tượng cho Bí-pháp Thiên Đạo.

(Xem thêm Dịch Lý Cao-Đài có giải rõ)

Xét kỹ lại thì trong cửa Đạo ngày nay còn có 6 vị thường được nhắc đến qua các công trình lo cho Đạo pháp, như Hiệp-Thiên-Đài có ba:

1- Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư chưởng-quản chi ĐẠO.

2- Thượng-Sanh Cao Hoài Sang Chưởng-quản Chi THẾ.

3- Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Chưởng-quản chi PHÁP. Nhưng Đức Hộ-Pháp, Ngài còn là GIÁO-CHỦ của nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ về phần hữu hình nữa.

4- Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung chưởng quản Cửu-Trùng-Đài. Nếu Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là Quyền CHÍ-TÔN tại thế.

5- Bảo-pháp Nguyễn Trung Hậu là Thời-Quân Hiệp-Thiên-Đài, thuộc chi Pháp.

6- Hiến-pháp Trương Hữu Đức là Thời-Quân Hiệp-Thiên-Đài, thuộc chi Pháp.

Như vậy thì Cơ Đạo bấy giờ cũng đủ Tam Âm Tam Dương, ứng với hai quẻ CÀN KHÔN, nghĩa là nắm máy Âm Dương cũng đủ quyền hành để “Quản suất Càn Khôn định cõi bờ”được vậy.

F- Đức Thượng-Phẩm bị khảo nặng nề:

Đức Thượng-Phẩm đã phế đời hành Đạo.

Vừa qua phải trả lại ngôi Từ-Lâm-Tự, vì Hòa Thượng Như-Nhãn đã phản ngôn nên toàn Đạo rất gian nan dời cốt Tượng Phật-Tổ về đất mới mua và cùng công quả bứng gốc phá chồi lập nên một ngôi Thánh Thất tạm. Vừa yên ổn thì vì sự ganh tỵ mà nhóm người này làm khổ Đức Thượng-Phẩm, đuổi Ngài ra khỏi nơi đây.

“Đức Ngài về Thảo Xá, vì buồn rầu, vì xấu hổ với anh em bạn, mặt mũi nào trở về sở làm được nữa, thế nên Ngài thất chí ước nguyện của Ngài không thành.

“Vì khi ra đi Ngài quyết chí đem thân này làm con tế vật cho Đức Chí-Tôn sai khiến, nhưng cơ đời rất nên cay nghiệt, xảy đến nhiều nỗi tang thương cho gia đình Ngài. Đức Ngài quá đau khổ có làm một bài thi tự thán như vầy:

Thi

Công trình gầy dựng Thất Tây-Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình.
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
Xưa Tòa-Thánh dập dìu lai vãng,
Nay Bửu Đình hiu quạnh lụy nhìn.
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu,
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

THẤT NƯƠNG Giáng cho Đức Thượng-Phẩm một bài thi:

Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,
Nhờ ai an vị lại an nơi.
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời.
Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Đến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời.

 

Ngày 15-03 Mậu-Thìn (Dl 04-05-1928)

Đức Chí-Tôn dạy “Thầy phán lịnh cho Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài phải hiệp nghe à”.

 

Phò loan: Hộ-Pháp - Thượng-Phẩm

Rằm tháng 3 năm Mậu Thìn (4-5-1928)

THẦY

Các con! Cười.... Thầy tưởng khi các con còn cứng lòng hơn nữa chớ... Cười....

“Các con chỉ biết rằng có xác thịt trần của các con đó là hữu hình, biết có mình các con mà thôi, chớ còn Lão già nầy thì chẳng cần chi kể đến há?

Nầy, Thầy nói cho các con biết rằng: Chẳng giờ phút nào mà mắt Thầy không chăm nom gìn giữ các con, Thầy đợi xem cho rõ coi cách các con lập vị mình dường nào. Thầy lại nghĩ mà cười thầm hoài. Mỗi phen Thầy thử thách các con thì các con rối rắm, Thầy chẳng biết tới chừng nào các con mới đoạt đặng Thánh đức của Thầy dành để cho các con. Trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Thầy lấy làm hổ thẹn, oan gia là oan gia lắm hử!

Từ ngày các con nghịch lẫn nhau thì chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chẳng còn ở cùng các con nữa, các con biết à?

Trung! Ngày mai nầy chạy tờ cho cả mấy em con biết rằng: Thầy phán lịnh cho Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài phải hiệp nghe à.

Tắc! Con phải ký tên tờ Châu Tri với Anh con nghe à!

Cư! Con phải sửa soạn mình hầu chịu một phen khảo hạch nữa, rán lấy gương ấy mà răn nghe.

Hai con Trung, Cư phải hiệp ý đặng lo Đạo, Thầy dặn một phen nữa, chi chi các con cũng nhớ khi các con ở nơi lòng Thầy.

Hậu! Cho cả Chức Sắc Hiệp-Thiên-Đài hay mạng lịnh Thầy.

Thầy Thăng.

 

Chính Đức Thượng-Đế đã phải than:

THI

Cao-Đài tá thế đến phàm-gian,
Bạch-Ngọc Hùynh-Kim cũng chẳng màng.
Chìu lụy đòi phen xem quá tục.
Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.

Cười khan mà khóc bởi thương bây.
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy.
Nương theo con dại mới ra vầy.

G- Bát Tiên giáng cơ:

Như lúc sau, có mấy vị trong Bát Tiên, đến dìu-dắt mấy Ông, có ban cho những vần thơ tuyệt bút như vầy:

1- Thơ của Đức Lý Ngưng Dương

Đại hỉ chư Đạo-hữu:

THI

Trời đất riêng tay giữ một bầu,
Ngàn mây dậm gió gót chơn thâu.
Rừng tòng thong-thả nhàn ra dạo,
Đền ngọc thung-dung rảnh đến chầu.
Thoát tục sớm dìu nên bảy bạn,
Dẫn phàm nay rảo khắp năm châu.
Thế trần mừng gặp Tam-Kỳ độ,
Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.

Lý Ngưng Dương

2- Chư Đạo-hữu may mắn thay, gặp đường Chánh giáo, chớ dần-dà, trễ công thiếu quả, mà chẳng đến thang Thiêng-liêng kịp thì hội vị. Lão mong ngày Đạo khải hoàn, chư Đạo-hữu nên gắng sức. Đường cũng chẳng bao xa, miễn hiệp đồng nhứt tâm vì sanh chúng, sau còn ngày gặp-gỡ. Thăng.

THI

Rảo khắp non sông dậm trải qua,
Bì gương nhựt nguyệt tác không già.
Biển trần nay gặp kỳ dìu chúng,
Muôn dặm đèn soi đã có ta.

Hớn Chung Ly

3- Chư Đạo-hữu, Đức Chí-Tôn dìu bước, cả Tiên Phật dẫn đàng, há chẳng sớm lánh phồn hoa, đặng dồi-dào gương độ chúng. Huống chi, chư Đạo-hữu đã có quả nơi mình, lại chẳng vì mạng lịnh Đức Từ-Bi, mà chịu ít lâu khổ hạnh, hầu mong buổi đoạt phẩm-vị Thiêng-liêng sao?

Ước mong ngày hội ngộ, trông mong buổi tạc thù, rượu Thánh ra non dòm thế, cờ Thần dựa đảnh luận đời. May thay! Vui thay! Chư Đạo-hữu nên gắng sức! Thăng.

THI

Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong ao,
Đền ngọc từng khi để bước vào.
Rảnh hứng trăm hoa khoe Đảnh Ngự,
Nhàn vầy mấy bạn dự Bàn-Đào.
Độ đời rảo gót non sông lướt,
Cứu thế dìu nhân đạo-đức trau.
Chờ buổi tuần huờn Thiên Địa trở,
Nương gươm Thần huệ một vừng cao.

Lữ Đồng Tân

4- Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp kỳ Phổ-độ, khá biết cải thế thì. Đạo khả trọng, đức năng trau.

Đời dời đổi, 
Đạo chờ người. 
Khách tục nương thuyền độ, 
Non Tiên tiếng khánh đưa, 
Gắng nhọc thế lọc-lừa, tìm đường ngay thẳng-rẳng.
Nguồn rửa bợn nhiều đường cay đắng, 
Bước nâu sòng dặm lắm gay go.
Liệu sao khỏi trễ con đò, 
Mới thoát vòng khổ hải. 
Gắng sức vì sanh mạng, 
Lao tâm chớ sợ bởi căn xưa. 
Đường quanh co, bước khá ngừa; 
Nẻo hiểm trở, chơn nên lánh.

Hậu tái ngộ. Thăng

THI

Từng vào non Thánh lại đền vàng,
Mãn quả sớm nhờ sắc ngọc ban.
Lần hạc tu tâm thìn nét Đạo,
Biển trần độ chúng vững con thoàn.
Cuộc cờ chung hứng nơi rừng thắm,
Bầu rượu riêng vui với cội tàng.
Gặp lúc dìu đời qua bến tục,
Để công phải nhọc đến phàm gian.

Lâm Thể Hòa

5- Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp lối quanh co, khá biết ngừa vực thẵm, gắng sức cho tròn trách-nhậm lớn lao của Đấng Chí-Tôn phú thác.

Chư Đạo-hữu khá biết. Thăng

THI

TRƯƠNG kỳ bạch động mộ Tiên gia,
QỦA diệu thâu trì tác trí kha.
LÃO dược độ sanh tiên tự khởi,
Hiến trần tu thức trực ninh tà.

Trương Quả Lão

Ách nước nạn dân, số Trời đọa thế. Vòng vay trả, mối buộc ràng; nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi vì đâu nông nỗi.

H- Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế thật sự đến với nhân-loại

“Mãi đến đêm Noel (24-12-1925) Thất-Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ truyền cho ba Ông phải chỉnh đàn cho nghiêm hầu tiếp giá. Nghe vậy, mấy Ông Cư, Tắc, Sang nửa mừng nửa sợ, lật đật sắm đủ hương, đăng, hoa, trà, tửu, quả, chỉnh đàn cho có nghi tiết, đoạn hai Ông Cư và Tắc mới ngồi chấp cơ.

Cơ giáng như vầy:

“Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ Tát Ma-Ha-Tát giáo đạo Nam phương

THI

Muôn kiếp có Ta nắm CHỦ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Đêm nay phải vui mừng là vì là ngày Ta đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây. Ta rất vui lòng mà đặng thấy Đệ-tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.

(Cúng tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư 134 Bourdais, Sài Gòn)

Đức Cao-Đài lại phán rằng:

“Bấy lâu Thầy vẫn tá danh AĂÂ là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy khai Đạo.

“Các con thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa? Các con nên bắt chước trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức."

Ngày 31-12-1925 (âl 16-11-Ất Sửu), Đức Cao-Đài giáng:

AĂÂ:

Ba con thương Thầy lắm há?

Con thấy đặng sự hạ mình của AĂÂ như thế nào chưa? Con có thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa?

Người quyền thế lớn nhứt như vậy có thể hạ mình bằng AĂÂ chăng? AĂÂ là Thầy.

Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không?

Cao Quỳnh Cư bạch:

Thấy nhơn sanh chưa rõ sự huyền diệu của Thầy, họ nó phạm thượng, ba con binh vực Thầy, ba con cải với họ.

Thầy biết. Cười!...

Sự nhỏ-nhẹ của Thất-Nương đó, con bằng mảy mún gì chưa? Học hỏi sự nhỏ-nhẹ ấy.

Sự cao-kỳ của Lục-Nương, con có đặng mảy-mún gì chưa? Học sự cao kỳ ấy.

Sự nhân đức của Nhứt Nương, con có chút đỉnh gì chưa? Phải học nhân đức của Nhứt Nương.

Tình nghĩa yêu mến của con có bằng Bát-Nương không? Phải học.

Phải học tình nhân ái, trung tín, cứu giúp của ba con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương chăng? Phải học gương.

Sự kính nhường ba con có bằng Cửu Nương chăng? Phải học.

(Bài Cơ này luận thành hình một Bát-quái Đồ thiên: Xem thêm Dịch-Lý Cao-Đài quyển I có giải rõ)

 

Mercredi 2 Février 1927 (30-12-Bính Dần).

NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ VIẾT CAO-ĐÀI GIÁO-ĐẠO NAM-PHƯƠNG

Các con! Mừng các con ...

Trung, Cư, Tắc, mấy con có nhớ đêm nay năm rồi thế nào, còn nay ra thế nào chăng?

Trịnh Thị Ái Nữ, Hiếu, hai con đã thấy Thầy giữ lời hứa thế nào chưa?

Thầy lập Đạo năm rồi ngày nầy thì Môn Đệ của Thầy chỉ có mười hai đứa, mà bốn đứa vào nơi tay chúa Quỉ, chỉ còn lại tám. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo.

Thầy hỏi, nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh nhờ tay có sáu đứa Môn Đệ trong một năm cho đặng bao giờ.

Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết bốn muôn Môn Đệ của Thầy.

Thơ, con đã ngoan Đạo, mà sự ngoan Đạo của con đó còn độ lắm kẻ, Thầy khen con.

Bính, Thầy thưởng công con cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến con. Thầy cám ơn lòng đạo đức con, sanh linh còn chờ công con mà thoát qua khổ hải.

Bản, Thầy thăng chức Giáo Sư. Trò, Thầy cho lên Giáo Hữu.

Nhiều đứa khác nữa, ngày mùng chín Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.

Thầy ban ơn hết trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy. Thầy dở Cơ lên cho các con đều chun ngang qua cho Thầy ban phép lành...

Thầy cầu cho các con đặng ngoan Đạo như Thơ vậy; sửa mình cho nên chí Thánh vì Đạo năm nay sẽ rõ thấu khắp cả hoàn cầu. Môn Đệ tăng thêm hằng hà sa số. Phận sự các con lại còn nặng nề hơn nữa, nhưng các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ biết thương Thầy thì ắt thương Đạo, mà hễ thương Đạo thì ắt thương hết Chúng Sanh. Các con biết Thầy là trọng, thì biết trọng Đạo, mà hễ trọng Đạo thì cũng phải trọng cả hết Chúng Sanh. Trong tháng Giêng này Thái Bạch sẽ hội Nữ phái đặng lập cho hoàn toàn. Thầy trông công các con lắm đó.

Thầy ban ơn cho các con một lần nữa.

 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ

Chư Môn Đệ bình thân,

Trung, con kêu hai người Thông ngôn Thổ vào, để một đứa trước chùa, một đứa trong Điện, Thầy nói thì nói lại nghe.

Kêu Gồng... Cựu Mẹ Sóc... Không phải, Gồng! Con thông ngôn lại nghe.

Đứng dậy con. Thầy mừng lũ con yêu dấu Thầy. Căn đày của các con hầu mãn. Thầy đến lập một nền chánh Đạo nầy tại cõi Đông Dương là cốt làm cho kẻ bị hiếp đáp đặng mạnh mẽ, kẻ hiền lương làm Thầy kẻ hung bạo, ấy là lẽ công bình Thiêng liêng Tạo Hóa.

Hết phạt tới thưởng là thường lệ.

Các con thoát đặng khỏi nơi u ám là bởi đạo đức. Các con sẽ đặng trọng kỉnh cũng bởi đạo đức. Thầy bồi đắp một sự ghét bỏ các con gần trên một trăm thế kỷ. Vậy các con phải chung hiệp cùng nhau. Nam-Thổ chẳng còn phân chia nòi giống nghe à!

Thầy ban ơn cho hết thảy các con.

Thầy dặn tái cầu cho Thầy dạy người Nam.

I- ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

Thầy đã ban Quyền Giáo-Tông, tức là Anh Cả của toàn thể nhơn sanh, cho Đức Lý Đại-Tiên Thái Bạch Kim-Tinh. Nghĩa là Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là Quyền CHÍ-TÔN tại thế.

Ban cho thi cũng là tiên tri cho vận mạng của nhân loại trong thời buổi này:

* Mardi 11 Janvier 1927 (08-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy:

Lão viết chậm, Thượng-Phẩm Hiền Hữu dặn Sĩ Tải phải viết cho cẩn thận. Lịch rán đọc cho tử tế, bằng chẳng Lão đuổi ra ngoài ... Nghe à.

Điệu văn Động Đình của Lão dạy chư Tiên, chư Phật, sau có truyền cho Bạch Vân Đạo Sĩ gọi là Trạng Trình, song người học đặng có một điệu truyền thế gọi là điệu Bạch Vân. Lão lấy đề "Ngụ Đời" nghe.

Ngụ Đời của Đức Lý

Đời hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Đạo truyền.
Nhẫng lo trọng tước cao quyền,
Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành lá rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.

Sắc
Tài
Tửu 
Khí

Lưng vơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm Thần huệ dứt lần trái oan.
Vụ chữ nhàn....

Giải nghĩa: Thầy là cội, chúng sanh là lá.... Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà dứt oan trái đặng tu tâm dưỡng tánh, hầu vụ chữ nhàn.

Thượng-Phẩm! Hiền Hữu nhớ đã đặng một điệu văn Động Đình rồi, chừng nào đến điệu Bạch Vân, Lão sẽ nói....

# 2:

Mến giang san
Phế bua quan
Ngừa trị loạn
Xem qua như chốn hí tràng,
Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung.
Chẳng ai nắm kiếm Thư Hùng,
Thành nghiêng khôn đỡ vạc rùng khôn nâng.

Sĩ dân,
Soái Tướng,
Quân Thần,

Chính chuyên thay! Phận phàm nhân,
Đỡ nương chẳng biết dựa gần người binh.
Nghe thấy bắt động tình.

Chú giải: Rùng là sung sướng. Thư Hùng Kiếm của Trương Tử Phòng dâng cho Hàn Tín. Cái phận phàm nhơn chịu lắm nỗi chinh chuyên.

Hộ-Pháp Hiền Hữu ngâm hai bài trước, Thượng-Phẩm Hiền Hữu hãy đề hai bài số 1 và số 2 Lão còn kết.

Chú giải: Chinh chuyên: chinh là nghiêng; chuyên là chở. Chở nghiêng nghĩa là chở nặng nề.

Thần Huệ Kiếm: Huệ trí dĩ vi kiếm tác Đạo giả: Lấy huệ trí làm gươm mà hành Đạo...

# 3:

Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
Nền giao cỏ loáng sân chầu sương phong,

Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công,
Vua chẳng phải giòng,

Về Đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm?

# 4:

Cũng xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,
Cũng văn, cũng pháp, cũng phong, cũng tục Nam,
Cũng xã tắc, cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.

Bát Quái:

Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.

Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi.
Ấy cũng gọi đời ...

Lão dặn Thượng-Phẩm phải biên số, là vì điệu văn Động Đình chẳng phải mỗi điệu vậy là dứt, Lão còn kết thêm nữa.

Tỷ như:

Bài số một, gọi là điệu Thái Cực.

Bài thứ nhì, gọi là điệu Lưỡng Nghi.

Bài thứ ba, gọi là điệu Tứ Tượng.

Bài Lão nói là điệu Bát Quái.

Vậy Lão làm tiếp rồi sẽ chỉ....

Bài số 4: .... Hộ-Pháp giải nghĩa:

Vậy thì gọi là Điệu Thái Cực là sao?

Lão chỉ cho Thượng-Phẩm:

- Đọc bài số 1, khi nhập đề như vậy, thì là không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là nhập Hư Vô. Thái Cực là vì đó một tiếng. Nhập lại Hư Vô. Bài số 2 ba tiếng là Tam Giáo. Sĩ dân hai tiếng ấy là Lưỡng Nghi. Bài số 3: Ngũ ngôn ấy là Ngũ Chi. Bốn chữ là Tứ Tượng  Bài số 4: Chín chữ là Cửu Lưu đó. Tám chữ ... ấy là Bát Quái.

Lão sẽ tiếp điệu Biến Hóa Vô Cùng rồi mới kết cho toàn điệu.

Chư Đạo Hữu lấy điệu văn ấy làm ra mỗi người một bài cho Lão sửa. Phải tùy theo từ chữ, từ giọng, vậy mới trúng niêm luật; bài của Lão chỉ dùng làm kiểu đó thôi...

* Lão dạy văn. Chư Nhu ngồi kiết tường. Thượng-Phẩm Hiền Hữu có điệu biến hóa số 1. Bốn bài kia rồi, bây giờ lấy lại số 1 Lão tiếp nữa.

Số 1: Trên là Tứ Thời, giữa Tam Tài gọi điệu văn Tam Tài.

Nhơn vật khác vời,
Vị chữ kim thời,
Phong dời tục đổi,
Điền viên đất nổi lên vàng,
Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.
Tròn năm luống phận cần cù,
Không nuôi thê tử không bù thân sanh.

Nhỏ tùng đinh,
Lớn tùng binh,
Già nằm canh.

Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan núc mỡ dành làng ăn.
Thân trâu phải chịu nhọc nhằn,
Đòn roi lão mục, tiếng dằn thằng chăn.
Phải tùy phương nắng, dõi dắn day dù.

Hộ-Pháp, Hiền Hữu ngâm hết.

Hay! Nhưng Hiền Hữu nhớ thuộc lòng mỗi bài Lão cho nghe... Lão tiếp.

Số 2: Trên là Bát tuyết, giữa là Ngũ hành, gọi là điệu văn Ngũ Hành.

Một thổ võ xưa kia nên tuấn tú,
Bị tay phàm làm xấu nét phong quang.
Ôi! Thương thay cho cẩm tú giang san,
Đầy sông ngui ngút khói thuyền,
Đầu non súng giữ, cuối triền gươm đoanh.
Công dân đắp lũy bồi thành,
Tay mình lại cột lấy mình thảm thay.

Nỗi lương tháng bổng ngày,
Nỗi tiền hỏi bạc vay,
Nỗi trả thuế đóng bài.
Thợ hay đầy đủ đức tài,

Giũa đêm chẳng đủ, bào ngày không kham.
Miệng ăn quá sức tay làm,
Thê nhi thiếu kém thân phàm chẳng no.

Cũng trò.

Số 3: Trên là Lưỡng Khí, giữa là Cửu Thiên.

Lợi bỏ,
Không lo,
Cướp to,
Giựt nhỏ.

Trường thương lấp ló ít người,
Nơi tay dị chủng như Trời nắng mưa.
Quốc dân ăn thãi uống thừa,
Khôn ngăn bán lận khó ngừa buôn gian.
Cửa Sàigòn tính bán áp chế nội hàng,

Gạo bắp chở ngoại bang giành phần xuất cảng.

Dùng mưu phản gián Nam Bang,
Đoạt thâu cho sạch vàng ngàn bạc muôn.
Nọc ăn máu nước thúi ruồng,
Khô khan lạc khí hao mòn hồn tinh.
Tính toán vốn lời mình, đừng chịu làm thinh e lỗ vốn.

Ngụ đời Số 4: Trên là Thập Nhị Thời. Giữa là Thập Điện Diêm Cung. Gọi là điệu văn Thập Điện.

Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn, cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn, cũng lũ ngu ăn hỗn.
Mua phẩm hàm tước hộ cầu tôn, tiền ngàn không sợ tốn.

Cửa công huyện mãn nha còn,
Dạ thưa lưỡi mỏi, cúi lòn lưng cong.
Lằn xanh ưa hửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ mến vòng tôi con.

Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,
Rủi phải cơn thốn thiếu, chịu người níu kẻ đòi.

Đã quen tiếng buộc lời lơi,
Gian làm ra phải lỗi dời thành ngay.
Dày công đếm số mề đay,
Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.

Có chi ham ....

Hộ-Pháp, Hiền Hữu ngâm mấy bài trước cho Lão chỉ tên bốn bài chót.

Thượng-Phẩm Hiền Hữu có đề số 1:

No 1 - Trên là "Tứ Thời" giữa là "Tam Tài", gọi điệu văn Tam Tài.

No 2 - Bài nhì, trên là Bát Tuyết giữa là Ngũ Hành, gọi điệu văn Ngũ Hành.

No 3 - Bài ba, trên là "Lưỡng Khí" giữa là Cửu Thiên.

No 4 - Bài tư, trên là "Thập Nhị Thời" giữa là Thập Điện Diêm Cung, gọi là điệu văn Thập Điện. Chỉ rõ ràng Bát Quái, Bát Quái đã biến đủ nhứt âm, nhứt dương.

Lão tiếp thêm cho đủ 12 điệu văn, gọi là "Thập Nhị Khai Thiên" Động Đình Hồ....

Ngụ đời Số 5:

Nguồn nước cấm
Thủy lợi thâu
Chiếc thuyền câu
Ra thủ phạm

Nghề xưa hạ bạc đã nhàm
Nay dân đói khó ra làm không no
Lúc giăng lưới khi đóng nò
Mảng lo tàu chặn, nhẫn dò bè trôi.

Cá chê mồi
Bởi quen muối,
Không tránh lưới

Nào khi nguyệt giỡn sóng cười
Thú hay mặt nước chơn trời ngửa nghiêng
Kinh luân đứt nối khó truyền
Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư Công.
Song cũng vẫn một lòng

Thượng-Phẩm, Lão tiếp 5 tiếng. Điệu văn "Thập Nhị Khai Thiên Động Đình Hồ".

Ngụ đời số 6:

Thân đói khô như nhộng,
Hỏi ăn chi đặng sống.
Rằng hớp khí thanh không.

Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.
Cây ăn lưỡi búa đã mòn,
Rừng cao hết củi nồi còn không cơm.
Lão Lục ngó lườm lườm,
Chú Săn đơm khẩu súng.
Non xanh vắng gót anh hùng,
Bỏ cơn Võ Kiết lánh vòng Văn Vương.
Thành Thang buông mặt lưới trương,
Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu.
Nạn củi quế gạo châu, Thiên sầu Địa thảm ...

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...